Nhật
Tiến
(Chân dung những
Nhà Văn – Nhà Thơ đã khuất núi)
Thời gian 40 năm chỉ là một khoảnh khắc
trong lịch sử, nhưng tuy vậy cũng đủ để cho con người hoàn tất một sự nghiệp
hay từ giã cõi đời.
Trong suốt 40 năm qua, kể từ khi miền Nam sụp đổ trước
sự xâm lấn của CS miền Bắc, nhiều văn nghệ sĩ vốn đã tạo dựng nên một nền Văn Học
rực rỡ của miền Nam cũng đã vượt thoát ra đi để mưu tìm một cuộc đời tự do đáng
sống. Trên phần đất tự do thuộc nhiều quốc gia trên thế giới, bên cạnh những nỗ
lực để hội nhập vào xã hội mới, các nhà văn, nhà thơ gốc Việt vẫn tiếp tục miệt
mài sáng tạo, duy trì và phát triển Văn Học Miền Nam trên đất tạm dung để có thể
coi là đã có một nền văn chương VN hải ngoại. Và cũng ròng rã trong suốt 40 năm
tận tụy với ngòi bút ấy, nhiều người đã lặng lẽ ra đi, bỏ lại phía sau những
công trình có thể chưa hoàn tất nhưng cũng đã gieo nhiều nỗi ngậm ngùi, xót xa
trong lòng của nhiều người ở lại
Nay nhân dịp kỷ niệm 40 năm hội nhập, mặc dù không
thể thu góp đầy đủ danh xưng của tất cả những nhà văn, nhà thơ đã khuất bóng,
phần liệt kê dưới đây xin coi như một nén nhang, một
bông hồng cho tất cả những nhà văn, nhà thơ đã mất ở hải ngoại mà trong suốt 40
năm qua đã góp phần cung ứng cho đời những tác phẩm quý giá để các thế hệ sau
khi nhìn lại không thể không biết tới.
Danh sách dưới đây xếp theo thứ tự thời gian mà các
vị đã khuất núi.
THANH NAM (1931-1985)
Nhà văn/nhà thơ Thanh
Nam tên Trần Đại Việt, người làng Mỹ Trọng tỉnh Nam Định, thân phụ là Tổng Giám
thị trường Cao đẳng Kỹ thuật Hà Nội ngày trước.
Năm 1946, mới 15 tuổi, Thanh Nam đã được tờ báo Thiếu
Nhi tại Hà Nội đăng thơ và mời cộng tác, và viết một số Sách dành cho tuổi trẻ
cho nhà xuất bản Văn Hồng Thịnh.
Năm 1953 ông vào Sài Gòn, được mời làm Tổng Thư ký
báo Thẩm Mỹ, viết truyện ngắn, truyện dài, bình thơ độc giả, phụ trách nhiều mục
khác như Phụ nữ Gia Đình, Gỡ Rối Tơ Lòng … và còn ký nhiều bút hiệu như Sông
Hương, Cô Hồng Ngọc, Bà Bách Lệ, Tôn nữ Đài Trang, Thợ Cạo. Năm 1960, ông hợp
tác với nguyệt san Hiện Đại do Nguyên Sa và Thái Thủy chủ trương, và là Tổng
Thư ký tuần báo Nghệ Thuật, cùng viết bài trên tuần báo Kịch Ảnh.
Di tản sang Hoa Kỳ năm 1975, ông tạm cư tại tiểu
bang New Jersey rồi năm 1976 định cư tại thành phố Seattle, tiểu bang
Washington. Ở đây ông cộng tác với tờ Đất Mới và một trong vài tờ báo Việt ngữ
đầu tiên xuất bản tại Hoa Kỳ . Ông mất vào ngày 2 tháng 6 năm 1985 do chứng ung
thư thanh quản.
Tác phẩm đã xuất bản :
Hồng Ngọc (1957)
Người Nữ Danh ca (1957)
Buồn Ga Nhỏ (1962)
Giấc Ngủ Cô Đơn (1963)
Còn Một Đêm Nay (1963)
Cho Mượn Cuộc Đời, Bầy Ngựa
Hoang (1965)
Giòng Lệ Thơ Ngây (1965)
Những Phố Không Đèn (1965)
Mấy Mùa Thương Đau (1968)
Gã Kéo Màn, ….
Đất Khách (1983)
VŨ KHẮC KHOAN (1917-1986)
Ông sinh năm 1917 tại Hà Nội, theo học trường Bưởi,
nhập học trường Y Khoa nhưng rồi đổi sang Cao đẳng Canh Nông, tốt nghiệp kỹ sư
sau chuyển sang văn học và lịch sử, dạy học ở trường trung học Chu Văn An.
Ông là tác giả những vở kịch Thằng Cuội ngồi gốc cây đa (1948), Thành Cát Tư Hãn,
và Giao thừa (1949). Hai
vở Giao thừa và Thằng Cuội đã được trình diễn ở Nhà hát lớn Hà Nội vào những
năm 1951 và 1952. Bài vở của ông cũng được đăng trên báo Phổ thông và Quan điểm.
Sau năm 1954 ông di cư vào Nam viết cho các báo Tự
do, Quan điểm rồi làm chủ nhiệm nguyệt san Vấn đề. Ông là giám đốc kịch nghệ của
Trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ ở Sài Gòn.
Ông tỵ nạn sang Mỹ năm 1975, định cư ở Minnesota nơi
ông dạy Pháp văn ở đại học Minnesota và thành lập Hội
Phật giáo Việt Nam tại đây. Ông mất ngày 12 tháng Chín, 1986.
ĐÀO ĐĂNG VỸ (1908-1997)
Đào Đăng Vỹ là nhà văn, nhà văn hóa, nhà
từ điển học rất nổi tiếng ở Huế từ những năm cuối của thập niên
40. Ông cũng là dịch giả có tiếng của Việt Nam.
Riêng trong lãnh vực từ điển, ông đã biên soạn những cuốn như Pháp Việt Đại Từ điển (1949-52, 1963, 1970), Việt Pháp Đại
Từ điển ( 1956, 1963, 1970), Pháp Việt Từ điển Phổ thông (1954-1956, 1960,
1963, 1965, 1970), Pháp Việt Tiểu Từ điển (1961, 1963, 1966, 1970), Việt Pháp
Tiểu Từ điển (1962, 1964, 1966, 1970), Việt Nam Bách Khoa Từ điển (Cuốn I cuốn
II, III…; 1959-1963).
Ông sinh ngày 1 tháng 2 năm 1908 tại Huế, và mất
ngày 7/4/1987 tại California – Mỹ.
BÌNH NGUYÊN LỘC (1914-1987)
Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, là một nhà văn lớn, nhà văn hóa trong giai đoạn 1945-1975. Ngoài
bút danh Bình Nguyên Lộc, ông còn có các bút hiệu khác như Phong Ngạn, Hồ Văn
Huấn, Tôn Dzật Huân, Phóng Ngang, Phóng Dọc, Diên Quỳnh…]
Ông đã sáng tác khoảng 50 tiểu
thuyết, 1.000 truyện ngắn và bốn quyển sách nghiên cứu, trong đó quyển
Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam chỉ được in phần đầu, phần còn lại độ 800
trang viết tay coi như bị thất lạc.
Ông cũng từng viết tiểu thuyết bằng thơ trường thiên
như Thơ Ba Mén, Việt sử trường ca, Luận thuyết y học, Thơ thổ ngơi Đồng Nai, Ca
dao… Ông còn có công sưu tầm được hàng nghìn câu ca dao kèm theo chú thích về đặc
điểm của mỗi câu.
Tháng 10 năm 1985, ông được gia đình bảo lãnh sang Mỹ
chữa bệnh. Ngày 7 tháng 3 năm 1987, ông từ trần tại Rancho Cordova, Sacramento,
California, vì bệnh cao huyết áp, thọ 74 tuổi
HOÀI ĐIỆP TỬ (1941-1987)
Tên thật Phạm Văn Tập. Sinh năm 1941 – Tân Tỵ – tại
Bạc Liêu.
Ông dùng nhiều bút hiệu khác nhau như Điệp Yên Hà,
Lê Thăng, Kép Độc, Kiều Linh Khanh. Ông bắt đầu làm
thơ từ năm 14 tuổi, chính thức viết văn vào
năm 1958 với truyện dài đầu tiên “Mớ tóc gái Phù Sa” viết trên nhật báo Chuông Mai
của ông Huỳnh Hoài Lạc.
Lần lượt cộng tác với các nhật báo, tuần san như
Chuông Mai của Huỳnh Hoài Lạc, Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai, Dân Đen của Nguyễn
Duy Hinh, Tiếng Dân, Tia Sáng của Nguyễn Trung Thành, Tiếng Nói Dân Tộc của Lý
Quý Chung, Độc Lập của Hoàng Châu, Tin Sáng của Ngô Công Đức, Thách Đố của Đặng
Văn Bé v.v…
– Năm 1966 ông sáng lập Nhà
xuất bản Sông Hậu cùng với các thân hữu như Trương Đạm Thủy, Ngô Tỵ,
Phan Yến Linh, Phương Triều, Tâm Đạm Dương Trữ La.
– Khi sang Mỹ từ năm 1981, nhà văn Hoài Điệp Tử làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tuần báo Mai (Nam California)
từ năm 1982 đến 1987.
Ông bị sát hại tại tòa soạn nằm trên đường Westminster (Nam
California) lúc 2 giờ 15 sáng chủ nhật ngày 9 tháng 8 năm 1987. Vụ án mạng này
đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ.
Các tác phẩm đã xuất bản tại Việt Nam : – Vũng Lầy (1964) – Trái Cấm – Tuổi Tình Yêu, nhà
xuất bản Sống Mới phát hành, 1965. – 16 Phiên Buồn (1966) – Lửa Đạn Về Thành –
Tình Biển (1968) – Đỉnh Núi Sương Mù – Còn Xanh Kỷ Niệm (1969) – Bến Đục – Giọt
Máu Cho Cánh Đồng Mùa Hạ (1970) – Tặng Phẩm Của Đêm – Bụi Thành Phố (1971) – Mặt
Trời Mọc Cho Ai – Hành Lang Đen (1972) – Cao Ốc Số 8 (1973) – Sóng Hoang, nhà
xuất bản Sông Hậu phát hành (1974)…. và một số thơ cùng truyện ngắn.
Tác phẩm đã xuất bản tại Mỹ : – Truyện dài: Trên Đầu Sóng, nhà xuất bản Hải Ngoại phát hành, 1982.
NGUYỄN TẤT NHIÊN (1952-1992)
Nguyễn Tất Nhiên tên thật là Nguyễn Hoàng Hải, sinh
ngày 30-5-1952 tại xã Bình Trước, quận Đức Tu, tỉnh Biên Hoà..
Ông là một thi sĩ bẩm sinh,
tài hoa, suốt đời cuồng nhiệt, đam mê với thơ, đặc biệt là thơ tình. Biết
làm thơ từ rất sớm: Mới 14 tuổi (1966,) đã có tập thơ đầu tay“Nàng Thơ Trong Mắt” và hai năm sau, 16 tuổi
(1968,) viết tiếp tập thơ“Dấu Mưa Qua Đất” (cả
hai tập thơ nầy đều ký bút danh Hoài Thi Yên Thi). Năm 1970, ông tự ấn hành tập
thơ“Thiên Tai,”lần đầu tiên lấy bút
danh Nguyễn Tất Nhiên. Năm 1978, ông vượt biên và định cư tại Pháp. Tại đây,
nhà xuất bản Sud-Asie đã ấn hành tập“Thơ Nguyễn Tất
Nhiên”gồm những bài thơ sáng tác từ 1970 – 1980. Sau đó, ông sang
Hoa Kỳ, định cư tại Nam California, tiếp tục sáng tác thơ, nhạc, cho ấn hành
các tập thơ“Chuông Mơ” (NXB Văn
Nghệ,1987,)“Tâm Dung”(NXB Người Việt,
1989,)“Minh Khúc” (1990, đã hoàn tất
bản thảo, phổ biến hạn chế.)
Ông mất ngày
3-8-1992 tại California.
DUYÊN ANH (1935-1997)
Duyên Anh tên thật là Vũ Mộng Long, những bút hiệu
khác là Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Lệnh Hồ Xung, Thái Anh,
Nã Cẩu, Bếp Nhỏ, Bếp Phụ và Độc Ngữ. Ông sinh ngày 16 tháng 8 năm 1935 tỉnh
Thái Bình.
Năm 1954, ông di cư vào Nam và từng làm đủ nghề: bán
thuốc sơn đông mãi võ, theo đoàn cải lương lưu diễn, quảng cáo cho gánh xiếc
rong, giữ xe đạp hội chợ, dạy kèm, dạy đàn ghi ta, dạy sáo.
Năm 1960, Duyên Anh bắt đầu sự nghiệp văn
chương và
nổi tiếng ngay với tác phẩm đầu tay Hoa Thiên
Lý. Tiếp theo đó là một loạt Thằng
Côn, Thằng Vũ, Con Thúy…. viết về
những kỷ niệm ấu thơ tại miền quê Bắc Việt.
Sau đó ông trở thành một ký
giả, chủ bút, chủ báo, giám đốc nhà xuất bản. Duyên Anh đã cộng tác với
hầu hết những tờ báo lớn ở miền Nam trước năm 1975 như: Xây Dựng, Sống, Chính
Luận, Công Luận, Con Ong, Tuổi Ngọc…ông cũng viết nhiều truyện ngắn và truyện
dài cho thiếu nhi.
Năm 1976, Duyên Anh bị bắt đi tù cải tạo trong Chiến
dịch bắt văn nghệ sĩ miền Nam (tháng 4, 1976). Sau khi ra khỏi trại cải tạo vào
tháng 11 năm 1981 ôngvượt biên đến Malaysia. Tháng 10 năm 1983 Duyên Anh sang định
cư tại Pháp. Một số tác phẩm ông viết ở Hải ngoại được dịch ra tiếng nước ngoài
và dựng thành phim, như Đồi FanTa, Một Người Nga ở Sài Gòn. Thời gian này, ông
cũng có viết thơ và soạn nhạc.
Ngày 6 tháng 2 năm 1997, Duyên Anh mất vì bệnh xơ
gan tại Paris, Pháp.
NGUYÊN SA (1932-1998)
Nguyên Sa sinh ngày 1 tháng 3 năm 1932, tên thật là
Trần Bích Lan, còn có bút danh Hư Trúc. Ông là một nhà
thơ lãng mạn nổi tiếng từ thập niên 1950 với những tác phẩm như“Áo lụa Hà Đông”, “Paris có gì lạ không em”, “Tuổi mười ba”,
“Tháng sáu trời mưa”, v.v.
Những câu thơ mà Nguyên Sa đem từ Pháp về Việt Nam
năm 1956 đã thay đổi rộng khắp cảm nhận thi ca của đa số thanh niên Việt Nam.
Giống như một nhạc cụ mới, có âm hưởng sâu và đánh thức giác quan thẩm mỹ của
thời đại (Mặc Lâm –RFA).
Ông đi Pháp du học vào năm 1949. Năm 1953, ông đậu
tú tài ở Pháp, lên Paris ghi danh học triết tại Đại học Sorbonne. Nhiều bài thơ
nổi tiếng của ông được sáng tác trong thời gian này. Năm 1955, ông lập gia đình
với bà Trịnh Thuý Nga ở Paris. Đầu năm 1956, hai ông bà về nước. Năm 1975, ông
di tản đi Pháp. Ba năm sau, ông và gia đình qua Hoa Kỳ và ở California từ đó
cho tới ngày qua đời. Ông mất ngày 18 tháng 4 năm 1998.
MAI THẢO (1927-1998)
Mai Thảo tên thật là Nguyễn Đăng Quý, bút hiệu khác:
Nguyễn Đăng, ông sinh ngày 8/6/1927 tại huyện Hải-hậu, tỉnh Nam-định. Thuở nhỏ
học trường làng, trung học lên Nam-định rồi Hà-nội (học trường Đỗ Hữu Vị, sau
là Chu Văn An). Năm 1945, theo trường sơ tán lên Hưng-yên. Khi chiến tranh bùng
nổ năm 1946, gia đình từ Hà-nội tản cư về quê chợ Cồn, từ đó Mai Thảo rời nhà
vào Thanh-hóa theo kháng chiến, viết báo, tham gia các đoàn văn nghệ đi khắp
nơi từ Liên-khu-ba, Liên-khu-tư đến chiến khu Việt-bắc. 1951, Mai Thảo bỏ kháng
chiến vào thành, đi buôn. 1954, di cư vào Nam. Viết truyện ngắn trên các báo
Dân Chủ, Lửa Việt, Người Việt. Chủ trương báo Sáng Tạo
(1956), Nghệ Thuật (1965) và từ 1974, trông nom báo Văn. Tham gia chương
trình văn học nghệ thuật của các đài phát thanh tại Sài-gòn từ 1960 đến 1975.
Ngày 4/12/1977, Mai Thảo vượt biển. và định cư ở Hoa-kỳ. Ít lâu sau ông cộng
tác với tờ Đất Mới của Thanh Nam và một số báo khác tại hải ngoại. Tháng 7/1982
ông tái bản tạp chí Văn, làm chủ biên đến 1996, vì tình trạng sức khỏe trao lại
cho Nguyễn Xuân Hoàng; hai năm sau ông mất tại Santa Ana, California ngày
10/1/1998.
Tác phẩm Mai Thảo đã xuất bản:
Đoản
thiên
Đêm giã từ Hà Nội (Người Việt,
1955)
Tháng giêng cỏ non (1956)
Bản chúc thư trên ngọn đỉnh
trời (Sáng Tạo, 1963)
Bày thỏ ngày sinh nhật (Nguyễn
Đình Vượng, 1965)
Căn nhà vùng nước mặn (An
Tiêm, 1966)
Đêm lạc đường (Khai Trí,
1967)
Dòng sông rực rỡ (Văn Uyển,
1968)
Người thầy học cũ (Văn Uyển,
1969)
Chuyến tàu trên sông Hồng
(Tuổi Ngọc, 1969)
Tùy
bút (1970)
Mưa núi (tập hợp những truyện
tuyển trong Đêm giã từ Hà Nội và Tháng giêng cỏ non, Tân Văn, 1970)
Ngọn hải đăng mù (Làng Văn,
Toronto, 1987)
Một đêm thứ bảy (Tổ hợp xuất
bản miền Đông Hoa Kỳ, 1988)
Hồng Kông ở dưới chân (Xuân
Thu, 1989)
Chân bài thứ năm (Nam
Á,Paris, 1990)
Chuyến
métro đi từ Belleville (Nam Á, 1990)…
Truyện dài:
Mái
tóc dĩ vãng (Tiểu thuyết tuần san, 1963)
Cô
thích nhạc Brahms? (phóng tác)
Khi
mùa thu tới (Thái Lai, 1964)
Viên
đạn đồng chữ nổi (Văn, 1966)
Đêm
kỳ diệu (?)
Cùng
đi một đường (1967)
Sau
khi bão tới (Màn Ảnh, 1968)
Tới
một tuổi nào (Miền Nam, 1968)
Cũng
đủ lãng quên đời (Hồng Đức, 1969)
Lối
đi dưới lá (1969)
Mười
đêm ngà ngọc (Hoàng Đông Phương, 1969)
Thời
thượng (Côi Sơn, 1970),
Sống
chỉ một lần (Nguyễn Đình Vượng, 1970),
Hết
một tuần trăng (Tủ sách Văn Nghệ Khai Phóng, 1970),
Sau
giờ giới nghiêm (Tủ sách Văn Nghệ Khai phóng, 1970)
Trong
như hồ thu (Tủ sách văn Nghệ Hiện Đại, 1971)
Mang
xuống tuyền đài (Tủ sách Văn Nghệ Khai Phóng, 1971)
Một
ngày của Nhã (1971)
Để
tưởng nhớ mùi hương (Nguyễn Đình Vượng, 1971)
Sóng
ngầm (Hoa biển, 1971)
Sống
như hình bóng (Tiếng Phương Đông, 1972)
Hạnh
phúc đến về đêm (Nguyễn Đình Vượng, 1972)
Một
đời còn tưởng nhớ (Hải Vân, 1972)
Gần
mười bảy tuổi (Nguyễn Đình Vượng, 1972)
Chỉ
là ảo tưởng (Sống Mới, 1972)
Suối
độc (Nguyễn Đình Vượng, 1973)
Tình
yêu màu khói nhạt (Nguyễn Đình Vượng, 1973)
Bên
lề giấc mộng (Ngày Mới, 1973)
Chìm
dần vào quên lãng (Tiếng phương Đông, 1973)
Cửa
trường phía bên ngoài (Đồng Nai, 1973)
Ánh
lửa cuối đường hầm (Anh Lộc, 1974)
Ôm
đàn tới giữa đời (Gìn Vàng Giữ Ngọc, 1974)
Những
người tình tuổi song ngư (Xuân Thu, 1992)…
Thơ:
Ta
thấy hình ta những miếu đền (Văn Khoa, California, 1989)
LÊ ĐÌNH ĐIỂU (1939-1999)
Nhà thơ, nhà giáo, nhà báo, nhà hoạt động
xã hội Lê Đình Điểu, người bạn lớn
của nhiều sinh hoạt văn hóa, giáo dục, truyền thông Việt Nam từ hơn 40 năm qua.
Ông sinh năm 1939 tại Ngọc Hà, ngoại thành Hà Nội.
Ông làm thơ, viết văn từ thời niên thiếu với bút hiệu Y Dịch. Năm 1967, ông tốt
nghiệp khóa Báo Chí học tại Viện Báo Chí Quốc Tế ở Kuala Lumpur, Mã Lai. Sau
đó, ông làm đặc phái viên Việt Tấn Xã, và là Phụ Tá Học Vụ Ban Báo Chí học ở Đại
Học Chính Trị Kinh Doanh, Đà Lạt. Năm 1972, ông đứng đầu ngành Thông Tin Quốc Nội
trong phủ Tổng Ủy Dân Vận, sau đổi thành Bộ Dân Vận-Chiêu Hồi. Năm 1974 ông làm
ở Phòng Báo Chí của Phó Thủ tướng Nguyễn Văn Hảo.
Từ 1975 đến 1981 ông bị đi tù cải tạo. Năm 1985 gia
đình ông qua Mỹ, và ông làm chủ bút nhật báo Người Việt,
đến năm 1988 thì trở thành Tổng Giám Đốc Công Ty Người Việt. Năm 1991 ông là chủ
nhiệm tạp chí Thế Kỷ 21. Ông cũng là chủ tịch trong
nhiều năm Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA). Năm 1995, ông làm chủ
tịch đài phát thanh VNCR mà ông là một sáng lập viên.
Ông đã dịch các cuốn sách “Kỹ Thuật Tòa Soạn”, THN xuất bản ở Sài Gòn
năm 1969, và “Ký Giả Chuyên Nghiệp”, Hiện
Đại xuất bản năm 1974, Người Việt tái bản năm 1977. Gặp chứng bệnh nan y, ông
đã từ trần ngày 24-5-1999.
NGHIÊM XUÂN HỒNG (1920-2000)
Cư sĩ Tịnh Liên NGHIÊM XUÂN HỒNG sinh năm 1920 tại
Hà Đông, Bắc Việt.
Năm 1953, hành nghề Luật Sư.
Năm 1954, đất nước chia đôi, di cư vào Nam.
Nguyên Luật Sư Tòa Thượng Thẩm Saigon, Cựu Bộ Trưởng
Phủ Thủ Tướng năm 1965, thời Nguyễn Khánh.
Sáng lập viên nhóm Quan Điểm, Saigon.
Năm 1975, miền Nam Việt Nam mất, di cư sang Hoa Kỳ.
Trước năm 1975, viết sách về Chính Trị,
Triết Học và Văn Chương.
Sau năm 1975, chuyên đọc Kinh Đại Thừa, tịnh
tu, viết sách Phật và giảng dạy Phật Pháp tại chùa Trúc Lâm Yên Tử,
Santa Ana và chùa Liên Hoa, Garden Grove, California.
TÁC
PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN Ở VIỆT NAM:
01. Đi Tìm Một Căn Bản Tư Tưởng,
1957.
02. Lịch Trình Diễn Tiến của
Phong Trào Quốc Gia Việt Nam, 1959.
03. Xây Dựng Nhân Sinh Quan,
1960.
04. Luyến Ái Quan qua Triết
Thuyết và Tình Sử, 1961.
05. Cách Mạng và Hành Động,
1962.
06. Người Viễn Khách Thứ Muời,
Kịch, 1963.
07. Từ Binh Pháp Tôn Ngô đến
Chiến Lược Nguyên Tử, 1965.
08. Việt Nam, nơi Chiến Trường
Trắc Nghiệm, 1966.
09. Biện Chứng Giải Thoát
trong Tư Tưởng Ấn Độ, 1966.
10. Biện Chứng Giải Thoát
trong Giáo Lý Trung Hoa, 1967.
11. Nguyên Tử Hiện Sinh và
Hư Vô, 1969.
TÁC
PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN Ở HOA KỲ:
01. Lăng Kính Đại Thừa,
1982.
02. Tánh Không và Kinh Kim
Cang, 1983.
03. Lăng Nghiêm Ảnh Hiện,
1983.
04. Nguồn Thiền Như Huyễn,
1984.
05. Mật Tông và Kinh Đại Thừa,
1986.
06. Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc
1, 1988
07. Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc
2, 1989.
08. Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc
3, 1991.
09. Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc
4, 1992.
10. Ma Tâm và Ma Sự của người
tu, 2001
Ông mất ngày 07
tháng 05 năm 2000 tại Orange County, California, Hoa Kỳ.
TRẦN HỒNG CHÂU (1921-2003)
Thi sĩ TRẦN HỒNG CHÂU tức
Giáo sư NGUYỄN KHẮC HOẠCH, sinh năm 1921, tại Hưng Yên, mất năm 2003 tại
California, Hoa Kỳ.
Học tại Trung Học Khải Định, Huế (1936-1943) rồi Trường
Đại Học Luật Hà Nội cho tới năm 1945.
Xuất ngoại: Học Đại Học Sorbonne, Paris, đậu Cử nhân
Văn Chương năm 1950, và Tiến Sĩ Văn Chương Quốc Gia (Doctorat d’Etat) năm 1955.
Tốt nghiệp Viện Cao Đẳng Quốc Tế Học thuộc Đại Học
Luật Khoa Paris (Institut des Hautes Études Internationales de la Faculté de
Droit), Paris, 1952.
Tốt nghiệp Trung Tâm Âu Châu Học thuộc Đại Học Nancy
(Centre D’Etude Européennes, Université de Nancy) Pháp quốc, 1957.
Về nước năm 1957, gia nhập ban giảng huấn Đại Học
Văn Khoa Saigon, phụ trách các môn Văn chương Pháp và Văn chương Việt Nam. Đồng
thời cũng giảng dậy tại Đại Học Sư Phạm Saigon, Học Viện Quốc Gia Hành chính và
Viện Đại Học Huế.
Được bầu làm Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa Saigon từ
1965 đến 1969.
Giáo sư biệt thỉnh về văn chương Pháp và văn chương,
văn hoá Việt Nam tại Southern Illinois University trong thời gian 1970-1974.
Thành viên của Ủy Ban điển chế văn tự và Ủy Ban soạn
thảo từ điển Bách khoa Việt Nam (1968-1970). Thành viên Hội Đồng Viện Đại Học
Saigon từ 1958 đến 1970. Được tưởng thưởng Văn Hoá Giáo Dục Bội Tinh (1968).
Thành viên của các hiệp hội văn hoá giáo
dục tại quốc ngoại và quốc nội: Modern Languages
Association từ 1971, Association of American University Professors từ 1973,
Association for Asian Studies từ 1971, American Oriental Society từ 1973,
Societé des Etudes Indochinoises (1961-1970), Hội Việt Nam liên lạc Văn hoá Á
châu (1958-1961).
Đã dự một số hội nghị về văn hoá giáo dục ở trong và
ngoài nước: Nhật (Đại Học Keio, 1960), Ấn độ (New Delhi, 1965), Đài Loan (Đài bắc,
Việt Trung Hoa học, 1969). Tham quan một số Đại học Đại Hàn (1967) và Hoa Kỳ
(1966 và 1968).
Khai đường mở lối cho Viện Việt Học:
Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch đã được Hội Đồng Viện Việt Học mời vào Ban Cố Vấn từ
ngày thành lập Viện, 26 tháng 2, năm 2000 và được mời làm Viện Trưởng Viện Việt
Học (2001-2003), California.
Le
Japon et le Traité de Paix (Nhật Bản và Hoà Ước), Paris, 1952.
Le Roman Vietnamien au 18e
et 19e Siècle (Tiểu Thuyết Việt Nam Thế Kỷ 18 và 19), Paris, 1955.
Les
Relations Américano-japonaises depuis 1951 (Quan hệ Nhật-Mỹ từ 1951), Paris,
1957.
Xây
Dựng Và Phát Triển Văn Hoá Giáo Dục, (biên khảo, phê bình), Lửa Thiêng, Saigon,
1970.
Thành
Phố Trong Hồi Tưởng (tùy bút), An Tiêm, Los Angeles,1991.
Nửa
Khuya Giấy Trắng (thơ), Thanh Văn, Los Angeles, 1992.
Nhớ
Đất Thương Trời (thơ), Thế Kỷ, Los Angeles, 1995.
Hạnh
Phúc Đến Từng Phút Giây (thơ) Văn Học, Los Angeles, 1999.
Dăm
Ba Điều Nghĩ về Văn Học Nghệ Thuật (tiểu luận), Văn Nghệ, 2001.
Vietnam
Culture Series (Series Editor), Việt-Học Publishing, 2001-2003
Để
Tưởng Nhớ Nguyễn Du (thơ), Viện Việt Học, 2002
Suối
Tím (thơ), Văn Nghệ, 2003
Tuyển
tập Trần Hồng Châu (thơ, tùy bút, tiểu luận), Viện Việt Học, 2004
ĐẶNG TRẦN HUÂN (1929-2003)
Đặng Trần Huân sinh ngày 7-6 -1929, cựu Thiếu tá
QLVNCH, làm việc tại Cục Tâm Lý Chiến, ngành thông tin báo chí. Khởi viết năm
1953. Ông xuất thân sĩ quan Bảo chính đoàn từ Hànội trước 1954, (sau là Bảo An
), từng là cấp chỉ huy của sĩ quan báo chí Lê Cự Phách (tức Du Tử Lê ) – Ông
chuyển sang làm báo chuyên ngành quân đội, phục
vụ tại Cục Tâm lý chiến – Quân Lực VNCH. Bị đi tù cải tạo ở miền Bắc, khi được
trả tự do, Ông sang định cư tại Hoa kỳ, diện H.O năm 1992.
Ông là tác giả CHUYỆN CẤM
ĐÀN BÀ ( tập 1 và 2) , HẢI ĐẢO THẦN TIÊN (dịch), THÀNH PHỐ BUỒN THIU ( bút ký
). Sang Hoa Kỳ, tự xuất bản HÀNH TRÌNH MỘT
HÁT-Ô (Văn Mới 1995 ) NHỮNG NGƯỜI THÍCH DẤU HUYỀN ( 1998) CHỮ NGHĨA BỀ BỀ (
2000). Ông qua đời ở Hoa Kỳ ngày 21 tháng 3 năm 2003.
ĐỖ NGỌC YẾN (1941-2006)
Ông là người sáng lập và cũng là chủ nhiệm
đầu tiên của Nhật báo Người Việt, tờ báo lâu đời nhất và
cũng lớn nhất tại hải ngoại. Ông cũng là một trong những người góp phần tạo lập
ra khu Little Saigon tại Quận Cam, California.
Ông bắt đầu viết báo khi còn đi học và là chủ bút tờ
báo ở trường Trương Vĩnh Ký. Khi vào đại học Văn khoa, ông trở thành một đại diện
trong ban Chấp hành Sinh viên và đã tổ chức những cuộc xuống đường đòi lật đổ
tướng Nguyễn Khánh năm 1964. Năm sau ông bắt đầu làm việc với International
Voluntary Service (IVS), một hội thiện nguyện Hoa Kỳ, vận động và tổ chức thanh
niên sinh viên giúp tổ chức này phân phối thực phẩm cho đồng bào bị nạn bão lụt
ở miền Trung.
Từ năm 1964 ông Ðỗ Ngọc Yến viết bài cho các nhật
báo Sống, Sóng Thần, Ðại Dân Tộc, tạp chí Văn Nghệ, tuần báo Ðời, và nhiều tờ
báo khác. Bắt đầu từ thập niên 1970 ông cộng tác với nhiều phóng viên các báo
ngoại quốc hoạt động tại Việt Nam. Ngày 26-04-1975, ông và vợ cùng 3 con rời Việt
Nam và định cư ở Hoa Kỳ.
Ông thành lập tờ báo Người Việt (vào cuối năm 1978
ban đầu là tuần báo, tới 1985 thì trở thành nhật báo). Ông cũng đứng vai trò
trung gian chuyển đạt quan điểm người Việt tị nạn đến với người Mỹ qua báo chí
Mỹ. Ông mất ngày 17
tháng 8- 2006 tại bệnh viện Fountain Valley, miền Nam California.
THANH TÂM TUYỀN (1936-2006)
Nhà thơ, nhà văn Thanh
Tâm Tuyền, tên thật là Dzư Văn Tâm, sinh ngày 13-3-1936, tại Vinh, Nghệ An. Từ
16 tuổi đã đi dạy học tại Hà Đông, viết truyện đăng trên báo Thanh Niên tại Hà
Nội. Từ 1954 ông hoạt động trong Tổng Hội Sinh viên Hà Nội, chủ trương nguyệt
san Lửa Việt, rồi vào Nam.
Tại Sài Gòn, ông làm cho các báo Dân Chủ, Người Việt
và tham gia ban biên tập tạp chí Sáng Tạo (1956-1960) do Mai Thảo đứng tên, có ảnh
hưởng lớn trên văn học Việt Nam suốt một thập niên.
Do động viên năm 1962, Ông hoạt động trong quân lực
Việt Nam Cộng Hòa, công tác huấn luyện văn hóa, cấp bực cuối cùng là đại úy. Từ
1975 bị đi học tập nhiều năm tại nhiều trại cải tạo miền Bắc. Sau đó sang định
cư tại Hoa Kỳ.
Đã xuất bản khoảng mười tác phẩm. Ba tập thơ : Tôi không còn cô độc (1956), Liên – Đêm – Mặt trời tìm thấy
(1964, Sài Gòn), Thơ ở đâu xa (1990, Mỹ). Ba
truyện : Bếp Lửa (1957) ; Khuôn Mặt (1964), Dọc
đường (1967).Ba tiểu thuyết : Cát
lầy(1966), Mù Khơi (1970), Tiếng động (1970).
Một vở kịch ngắn : Ba Chị Em (1965). Một phiếm
luận(1970). Ông còn nhiều tác phẩm chưa xuất bản, như tiểu thuyết Ung Thư đăng nhiều kỳ trên báo Văn, Sài Gòn.
Ông qua đời lúc 11 giờ 30 ngày 22-3-2006 tại thành
phố St Paul, Minnesota, Hoa Kỳ, nơi ông cư ngụ, hưởng thọ 70 tuổi.
HOÀNG ANH TUẤN (1932 – 2006)
Hoàng Anh Tuấn là một nhà đạo diễn và nhà
văn sinh
năm 1932 tại Hà Nội. Năm 17 tuổi ông du học sang Pháp đến năm 1958 thì về lại
Việt Nam sau khi tốt nghiệp trường điện ảnh IDHEC (L’Institut des hautes études
cinématographiques) ở Paris.
Ông đóng góp nhiều bài vở cho các báo chí ở Sài Gòn.
Năm 1965 ông được bổ nhiệm làm Quản đốc Đài Phát thanh Đà Lạt. Tên tuổi của của
ông gắn liền với ngành điện ảnh trong vai trò đạo diễn. Bốn cuốn phim có sự
đóng góp của ông là
Ngàn năm mây bay(1963), dựa
theo tiểu thuyết của Văn Quang, hãng Thái Lai sản xuất với các diễn viên Lê Quỳnh,
Bích Sơn, Bích Thủy, Phạm Huấn
Hai chuyến xe hoa(1961) dựa
trên tiểu thuyết Hai chuyến xe hoa của Nguyễn Bính Thinh và tuồng cải lương của
Thái Thụy Phong; hai diễn viên chính trong phim là Thanh Nga và Thành Được
Nước mắt đêm xuân với
các diễn viên Mai Trường, Nguyễn Long, Lệ Quyên và Khánh Ly.
Xa lộ không đèn(1972) với
các diễn viên Thanh Nga, Hoài Trung, Trang Thanh Lan, Năm Châu
Sau năm 1975 ông bị đi tù cải tạo đến năm 1979 thì
xuất cảnh sang Pháp. Năm 1981 ông sang định cư ở Hoa Kỳ rồi mất năm 2006 ở San
Jose, California.
Tác phẩm của Hoàng Anh Tuấn :
Ly nước lọc– kịch
Hà Nội 48– kịch
Về Provence– tập thơ
Yêu em, Hà Nội– tập thơ
“Mưa Sài Gòn, mưa Hà Nội” – nhạc
soạn cùng với Phạm Đình Chương.
PHẠM VIỆT TUYỀN (1926-2009)
Nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học,
nhà báo Phạm Việt Tuyền, bút hiệu Thanh Tuyền, sinh ngày 15
tháng Tám, năm 1926. Ông từng là Chủ nhiệm nhật báo Tự Do kiêm Giám đốc Cơ sở
Báo chí và Xuất bản Tự Do. Ông cũng là Tổng Thư Ký của Trung Tâm Văn Bút VN
trong nhiều nhiệm kỳ. Tác phẩm của ông gồm những cuốn“Trên Ðường Phụng Sự,” (Kịch, Xb năm
1947) “Nghệ Thuật Viết Văn,”(Biên
khảo, Xb năm 1952) “Phá Lao Lung,” (Thơ,
Xb năm 1956) “Quan Ðiểm Về mấy Vấn Ðề Văn
Hóa,” (Biên khảo, Xb năm 1953)
hay “Phương Pháp Nghị Luận, Phân Tích và Phê Bình
Văn Chương,” (Biên khảo, Xb
năm 1969).. vân vân…
Trong lãnh vực giáo dục, ông là giáo sư dạy chứng chỉ
dự bị ban Việt Hán, ở Ðại Học Văn Khoa, Sài gòn; hay chứng chỉ Văn Chương Việt
Nam, cho năm thứ nhất ở Ðại Học Văn Khoa, Huế. Ðầu thập niên 1980, ông chọn định
cư tại thành phố Strasbourg, Pháp. Ông mất ngày 16 Tháng Hai, năm 2009.
CAO XUÂN HUY (1947-2010)
Cao Xuân Huy sinh tháng 9 năm 1947, quê nội ở Bắc
Ninh, quê ngoại ở Hà Nam. Sau hiệp định Geneve 1954 chia đôi đất nước, gia đình
ông cũng bị chia ly. Thân phụ ông theo kháng chiến, trở về Hà Nội, chị ông
không vô Nam, ở lại với bố. Còn ông thì theo mẹ di cư vào Nam.
Ông nhập ngũ năm 1968, là cựu
Trung Úy Ðại Ðội Phó ÐÐ 4 thuộc Tiểu Ðoàn 4 Thủy quân Lục chiến. Tại mặt
trận Quảng Trị vào tháng 3, 1975, ông bị bắt làm tù binh và bị cầm tù 5 năm.
Năm 1982 ông vượt biên và đến Mỹ một năm sau đó.
Năm 1985, ông in cuốn hồi ký “Tháng Ba Gãy Súng”, là cuốn hồi ký được viết
năm 1985, ghi chép lại những diễn biến của mặt trận Thừa Thiên- Huế cho đến khi
tác giả bị bắt làm tù binh. Cuốn sách đã được tái bản đến 10 lần và có mặt trên
58 thư viện lớn trên toàn thế giới.
Năm 2005, nhà văn Cao Xuân
Huy làm chủ biên tạp chí Văn Học (kế tục vai
trò của nhà văn Nguyễn Mộng Giác) đến tháng 4 năm 2008 Văn Học phát hành số 236
thì đình bản vì lý do ông bị ung thư mắt, sức khỏe suy yếu nên không thể chăm
lo cho tờ báo. Ngày 12-11-2010 nhà văn Cao Xuân Huy từ trần sau một thời gian
dài bệnh nặng. Bốn tháng trước khi qua đời, ông cho ra mắt cuốn “Vài mẩu chuyện”
do tạp chí Văn Học xuất bản.
THẢO TRƯỜNG (1936-2010)
Nhà văn Thảo Trường tên
thật Trần Duy Hinh, sinh ngày 25-12-1936 (giấy tờ ghi 1938) tại Nam Định trong
một gia đình đông con, ông là người thứ chín. Thân phụ ông mất sớm, năm 1954
ông di cư vào Nam để lại mẹ và người chị ở quê nhà lo phụng dưỡng ông nội và
coi sóc mồ mả tổ tiên. Nhưng sau đó, mẹ ông bị đấu tố, bị tịch thu hết nhà cửa
ruộng vườn, phải ra ở ngoài gò đất giữa cánh đồng nước mênh mông. Vào Nam, nhà
văn Thảo Trường gia nhập quân đội theo học khóa 6 Trường Sĩ quan trừ bị Thủ Đức,
và chính thức viết văn.
Truyện ngắn “Hương gió lướt đi” là
tác phẩm đầu tiên của ông đăng trên tạp chí Sáng Tạo do nhà văn Mai Thảo làm chủ
bút. Nhà văn Thảo Trường tham dự chiến tranh Việt Nam
suốt 17 năm. Ngày 30/4/1975 ông đi tù gần 17 năm, trải qua 18 nơi giam
giữ. Sau khi ra tù một năm, ông sang Mỹ đoàn tụ với vợ con. Ông đã qua đời tại
Quận Cam, California, Hoa Kỳ, ngày 26-8-2010 vì bệnh ung thư gan, thọ 74 tuổi
Các tác phẩm đã xuất bản gồm:
Người Đàn Bà Mang Thai Trên
Kinh Đồng Tháp (1966), Vuốt Mắt (1969), Chung Cuộc (1969, xuất-bản chung với Du
Tử Lê), Th. Trâm (1969), Bên Trong (1969), Ngọn Đèn (1970), Mé Nước (1971),
Cánh Đồng Đã Mất (1971), Bên Đường Rầy Xe Lửa (1971), Người Khách Lạ Trên Quê
Hương (1972), Lá Xanh (1972), Hà-nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng (1973) , Cát
(1974), Đá Mục (1998), Tầm Xa Cũ Bắn Hiệu Quả (1999), Mây Trôi (2002) , Miểng
(2005), Những miểng vụn của tiểu thuyết (2008).
PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011)
Phạm Công Thiện sinh ngày 1 tháng 6 năm 1941 tại Mỹ
Tho trong một gia đình Thiên Chúa Giáo. Từ tuổi thiếu niên ông đã nổi tiếng thần đồng về ngôn ngữ, năm 15 tuổi đã đọc thông viết
thạo năm ngoại ngữ Anh, Pháp, Nhật, Hoa, và Tây Ban Nha, ngoài ra còn biết tiếng
Sancrit và tiếng La Tinh.
Năm 1957, 16 tuổi, ông xuất bản cuốn tự điển Anh ngữ
tinh âm, nhưng từ vài năm trước đó cho đến khi rời Việt Nam vào năm
1970, ông đã cộng tác với các báo và tạp chí như Bông Lúa, Phổ Thông, Bách
Khoa, Văn, Giữ Thơm Quê Mẹ. Cuối thập niên 1950 ông đi dạy Anh ngữ tại một số
trường tại Sài Gòn. Năm 1960, ông khởi sự viết cuốn Ý thức mới trong văn nghệ và triết học khi chưa được 19 tuổi.
Ðầu năm 1964, ông chuyển ra Nha Trang sống để an dưỡng
sau một cuộc “khủng hoảng tinh thần.” Tại đây ông quy y ở chùa Hải Ðức, lấy
pháp danh Nguyên Tánh. Một thời gian sau ông lại về Sài Gòn.
Từ năm 1966-1968, ông là giám đốc soạn thảo chương
trình giảng dạy cho tất cả các phân khoa của Viện Đại học Vạn Hạnh. Năm
1968-1970, giữ chức trưởng phân khoa Văn học và Khoa học Nhân văn của viện đại
học này. Tại đây ông cũng là sáng lập viên và chủ
trương biên tập của tạp chí Tư Tưởng.
Ông rời Việt Nam từ năm 1970, chuyển sang sống ở
Israel, Ðức, rồi sống lâu dài tại Pháp. Tại đây ông lập gia đình và sau đó làm
giáo sư triết học Tây phương của Viện Ðại học Toulouse. Năm 1983, ông sang Hoa Kỳ, định cư ở Los Angeles, làm
giáo sư ở College of Buddhist Studies. Từ khoảng năm 2005, ông sang cư ngụ tại
Houston, tiểu bang Texas cho đến lúc qua đời ngày 8 tháng 3 năm 2011.
NGUYỄN CHÍ THIỆN (1939-2012)
Nguyễn Chí Thiện sinh ngày 27 tháng 2, 1939 là một nhà thơ phản kháng chính thể CSVN. Ông đã bị nhà cầm quyền Cộng Sản bắt giam tổng cộng 27 năm tù vì tội
“phản động”.
Sinh trưởng tại Hà Nội, ông có một thời dạy học.
Trong một bài giảng môn Sử năm 1960 do giảng bài không theo quan điểm nhà Nước
nên ông bị bắt vì tội “phản tuyên truyền”.
Ông được thả năm 1964. Đến năm 1966 ông lại bị bắt
giam vì làm thơ đả phá chế độ. Lần này ông bị giam đến năm 1977.
Năm 1979 Nguyễn Chí Thiện tìm cách chuyển tập thơ do
ông sáng tác cho nhân viên sứ quán Anh tại Hà Nội. Vì lý do trên ông lại bị bắt.
Đến ngày 28 tháng 10 năm 1991 ông được ra tù.
Năm 1994 ông được tổ chức Theo dõi Nhân
quyền trao giải thưởng Hellman/Hammett.
Tháng 1 năm 1995 ông được xuất cảnh sang Hoa Kỳ qua
sự vận động của Đại tá Không quân Hoa Kỳ Noboru Masuoka. Nhưng số phận nghiệt
ngã, tên tuổi của ông lại bị những ý đồ đen tối vùi giập một thời gian dài cho
đến khi ông qua đời ngày 2 tháng 10 năm 2012 tại Santa Ana, quận Cam,
California, Hoa Kỳ. Sau đây là lời nhận định của nhà phê bình văn học Thụy Khuê
:
“Nguyễn Chí Thiện, trong sâu
thẳm của thi ca, hình hài, và ngôn ngữ, trong tác phong, trong cách diễn đạt,
là một nhân cách thật, một con người thật. Chỉ vì nói thật mà mắc vòng tù tội.
Một con người ngây thơ, thành thật, ngơ ngác, vấp ngã trước bao giả trá, tàn ác
của chế độ độc tài. Tính thật ấy toát ra trong lời nói, trong câu văn, không
hoa mỹ, không vòng vo. Chất thật ấy bao trùm không gian, bọc lấy người nghe,
như một điệu buồn, như một hồn ma không đất đậu trên quê hương mà gian dối đã
thở thành sự thật. “
TUẤN HUY (1933-2012)
Nhà văn Tuấn Huy tên
thật là Nguyễn Năng Toàn sinh năm 1933 tại Hà Nội. Về sự nghiệp văn chương, Tuấn
Huy được ghi nhận là thành công rất sớm. Trong 20 năm văn học, nghệ thuật miền
Nam, ông có một số tiểu thuyết vẫn được nhiều người nhắc đến như: Nỗi Buồn Tuổi Trẻ,
Ngày Vui Qua Mau, Yêu trong bóng tối, Hương Cỏ May, Vòng tay Chờ Ðợi, ..v…v…
Vượt biển tìm tự do, trong thời gian tạm trú tại trại
tỵ nạn, Tuấn Huy viết truyện dài“Bến Lỡ.” Sau khi định cư ở Hoa Kỳ, ông đã xuất bản thêm
nhiều tác phẩm mới như “Dòng Sông Trong Giọt
Nước,” “Thềm Sương Mù” (tiểu thuyết).“Xuôi
Dòng Trầm Cảm” (tâm cảm) và, “Những
Sợi Mưa Hư Ảo,” tiểu thuyết. Tác phẩm này tuy đã được in thành
sách, nhưng ông chú thích “Ấn phẩm đặc biệt này dành riêng cho tác giả
không bán.” Ngay nơi trang đầu của tiểu thuyết (có thể coi là sau
cùng), nhà văn Tuấn Huy ghi “Thương nhớ Uyển Hương và gửi các con…” Tưởng
cũng nên nói thêm, Uyển Hương là khuê danh người bạn đời của tác giả “Vòng
Tay Chờ Ðợi.” Bà mất trong chuyến vượt biên hồi tháng 7 năm 1981 ở Biển
Ðông.
Ông qua đời ngày 24 tháng 2 năm 2012, tại miền Nam
California.
NGUYỄN MỘNG GIÁC (1940-2012)
Ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1940 tại tỉnh Bình Định,
miền Trung Việt Nam.
Thời kháng chiến chống Pháp 1946 đến 1954, ông học
tiểu học và trung học tại vùng kháng chiến. Sau Hiệp định Genève 1954, ông tiếp
tục học tại trường Cường Để (Quy Nhơn), trường Võ Tánh (Nha Trang), rồi học năm
chót của bậc trung học tại trường Chu Văn An (Sài Gòn).
Sau khi học một năm ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn, ông
ra Huế học Đại học Sư phạm ban Việt-Hán. Năm 1963, ông tốt nghiệp thủ khoa,
khóa Nguyễn Du. Ngay năm ấy, ông được điều đến giảng dạy tại trường Đồng Khánh ở
Huế. Năm 1965, ông được đổi vào Quy Nhơn làm Hiệu trưởng trường Cường Để.
Năm 1973, ông được thăng làm Chánh sở Học Chánh tỉnh
Bình Định. Năm 1974, ông chuyển vào Sài Gòn làm chuyên viên nghiên cứu giáo dục
thuộc Bộ Giáo Dục cho đến 1975.
Về sự nghiệp văn chương, ông bắt đầu viết
văn từ năm 1971, đã cộng tác với các tạp chí: Bách
Khoa, Văn, Thời Tập, Ý Thức. Năm 1974, truyện dài Đường Một Chiều của ông được giải thưởng Trung Tâm Văn Bút Việt
Nam. Tháng 11 năm 1981, sau khi vừa viết xong trường thiên tiểu thuyết Sông Côn Mùa Lũ, ông cùng con trai vượt biển,
đến được đảo Kuku của Indonesia. Trong mấy tháng ở đây, ông đã viết một số truyện
ngắn mà sau này xuất bản thành cuốn Ngựa Nản
Chân Bon, và tập I của bộ trường thiên tiểu thuyết Mùa Biển Động.
Tháng 11 năm 1982, ông đến Hoa Kỳ, định cư tại Nam
California, cộng tác với các báo: Đồng Nai, Việt Nam Tự Do, Người Việt, Văn,
Văn Học Nghệ Thuật.
Từ năm 1986, ông làm Chủ
bút tạp chí Văn Học ở California, Hoa Kỳ. Đến tháng 8 năm 2004, ông phải
ngưng công việc làm báo vì phát hiện bị ung thư gan.
Ông đã qua đời ngày 2 tháng 7 năm 2012 tại tư gia ở
thành phố Westminster (Orange County, California, Hoa Kỳ), thọ 72 tuổi.
THẾ UYÊN (1935-2013)
Nhà văn Thế Uyên tên
thực là Nguyễn Kim Dũng, sinh năm 1935 tại Hà Nội trong một gia đình có truyền
thống văn học. Mẹ ông là em ruột các nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, và là chị
nhà văn Thạch Lam.
Cùng với người anh ruột là nhà văn Duy Lam, Thế Uyên
khi vừa qua tuổi 20, tên tuổi đã hiện diện trong làng báo. Ông là người sáng lập tạp chí Thái Độ, như là một điểm khởi hành mới
trong hành trình chữ nghĩa của chính bản thân ông. Ông là tác giả các tác phẩm
nổi tiếng trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, như Mười Ngày Phép của một người lính, Tiền Đồn
Nhà văn Thế Uyên tốt nghiệp Trung học Chu Văn An,
theo học tại Đại học Văn Khoa và Sư Phạm, trở thành giáo sư Việt văn, dạy tại
nhiều trường trung học công lập ở miền Nam, rồi thuyên chuyển lên dạy ở Ban Mê
Thuột trước khi được động viên vào khoá 14 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức.
Trước
năm 1975 ông đã xuất bản 21 cuốn sách, kể cả dịch cuốn
Exodus của Leon Uris qua tiếng Việt là tác phẩm Về Miền Đất Hứa rất nổi tiếng được nhiều người tìm đọc
Sau 1975 ông bị đi tù cải tạo rồi đi định cư tại tiểu
bang Washington Hoa Kỳ vào năm 1987. Ở đây ông vừa viết văn vừa đi học rồi đi
làm. Ông đã có thêm mười tác phẩm được xuất bản: Sài Gòn sau mười hai năm, Con đường qua mùa Đông, Nghĩ
trong mùa Xuân, Tuyển tập truyện ngắn Thế Uyên, Tuyển tập dâm tình của các nhà
văn nữ Hoa Kỳ, Khu vườn mùa mưa, Nhà văn già và cô bé gù, Không một vòng hoa
cho người chiến bại, Những người Mỹ chung quanh chúng ta.
Nhà văn Thế Uyên đã qua đời ngày 11 tháng 6, 2013 tại
tư gia ở Bothell, tiểu bang Washington thọ 78 tuổi.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (1940-2014)
Nguyễn Xuân Hoàng sinh ngày 7 tháng 7 năm 1940 tại
Nha Trang (Khánh Hòa).
Thời niên thiếu, ông học ở trường Võ Tánh (Nha
Trang), trường Petrus Ký (Sài Gòn).
Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm, Văn Khoa (Triết học),
Viện Đại học Đà Lạt (1958-1961), rồi giảng dạy môn Triết tại trường trung học
Ngô Quyền ở Biên Hoà (1961-1962), tại trường Pétrus Ký ở Sài Gòn (1962-1975).
Ngoài ra, ông còn làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn ở
Sài Gòn (1972-1974).
Năm 1985, ông đến Hoa Kỳ và định cư tại San Jose.
Năm 1986-1997, ông làm tổng thư ký báo
Người Việt Daily News California).
Năm 1989- 1994, ông còn là tổng thư ký tạp
chí Thế kỷ 21 (California) thuộc công ty Người Việt.
Năm 1994, ông ở trong ban chủ biên tạp chí Văn Học.
Tháng 9 năm 1996, ông làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp
chí Văn, đồng thời ông làm tổng thư ký cho báo
Việt Mercury trực thuộc nhật báo San Jose Mercury News của Hoa Kỳ từ
tháng 11 năm 1998 đến tháng 11 năm 2005. Sau đó ông chủ
trương báo Việt Tribune.
Ông cũng từng là giảng viên (lecturer) giảng dạy môn
Văn học Việt Nam đương đại tại Đại học California-Berkeley. Sau một thời gian định
cư tại San Jose (Bắc California), ông qua đời tại đây vào ngày 13 tháng 9 năm
2014.
Tác phẩm của Nguyễn Xuân Hoàng đã xuất bản gồm:
Tập
truyện ngắn
Mù sương (1966)
Sinh nhật (1968)
Truyện
dài:
Bụi và rác (1996)
Khu rừng hực lửa (1972)
Kẻ tà đạo (1973)
Người đi trên mây (1987)
Sa mạc (1989)
Các
thể loại khác
Ý nghĩ trên cỏ (tiểu luận,
1971)
Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu
(tùy bút, 1974)
Căn nhà ngói đỏ (tạp ghi,
1989)…
Nhật Tiến biên soạn
(tổng hợp từ nhiều nguồn)
Theo:
-https://nguoitinhhuvo.wordpress.com
Nguồn: -phuongkhanhdo.wordpress.com