THUYẾT TAM CHIẾN CỦA TRUNG CỘNG
Vào năm 2003, Trung ương
Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Quân ủy Trung ương đã phê chuẩn cho khái niệm tam
chiến (san zhong zhanfa; 三种战法; tam chủng chiến pháp), đó là cuộc chiến nhắm đến
thế thượng phong cho Trung CỘNG trong các tranh chấp tương lai.
Khái niệm “tam chiến” được mô tả ở chương
2, phần 18 của “các quy định về công tác chính trị của Quân đội Giải phóng Nhân
dân Trung Quốc (PLA)”. Bộ Quốc phòng Mỹ diễn giải thêm tam chiến - ba loại hình
chiến tranh - là:
Chiến tranh tâm lý (Psychological warfare): Tìm cách phá hoại năng lực chiến đấu của địch bằng
cách ngăn chặn, gây hỗn loạn, làm mất tinh thần quân địch cũng như các nhóm người
hỗ trợ dân sự của địch.
Chiến tranh thông
tin (Media
warfare): Hướng đến gây ảnh hưởng đối
với ý kiến trong nước và quốc tế để ủng hộ các hoạt động của quân đội
Trung Cộng và làm địch thủ e sợ không dám hành động chống lại lợi
ích của Trung cộng
Chiến tranh pháp
lý (Legal warfare): Sử dụng luật pháp quốc tế và các nước để tranh giành
đến mức cao nhất hoặc xác quyết các quyền lợi Trung cộng . Loại
chiến tranh này có thể sử dụng để ngăn cản không cho kẻ địch tự do hoạt động
và tạo không gian hoạt động cho quân đội Trung cộng . Loại chiến
tranh này có thể được dùng để gầy dựng sự hỗ trợ quốc tế và nắm
bắt những hậu quả có thể xảy ra đối với quân đội Trung cộng .
Thực thi
Chiến tranh tâm lý: Bao
gồm những nỗ lực nhằm làm gián đoạn khả năng ra quyết định của đối phương, tạo
sự hoài nghi, gây những tình cảm chống đối, lừa đối phương và khiến đối phương
mất ý chí chiến đấu. Trong loại hình này, Trung cộng có thể sử dụng
tẩy chay kinh tế, áp lực ngoại giao,
dùng tàu cá, tàu ngư chính quấy rối, cho thuê các khu vực khai thác dầu khí mà
các nước khác tuyên bố chủ quyền, bày tỏ bất bình, áp đặt bá quyền và bày tỏ sự
đe dọa.
"Trò chơi bạo
lực của Trung cộng là một trò chơi chính trị: nhằm thắng về chính
trị. Dọa dẫm để đối phương nhượng bộ" (1).
Như một phần của
chiến tranh tâm lý, tự điển Bách khoa PLA có đề cập đến chiến lược hăm
dọa (weishe zhanlue; 威慑战略; uy hiếp chiến lược), đó là “biểu tượng sức mạnh quân sự,
hoặc đe dọa sử dụng sức mạnh quân sự, nhằm bắt buộc đối phương phải
hàng phục”. Răn đe có tính chiến lược (strategic deterance - zhanlue
weishe; 战略威慑; chiến lược uy hiếp) bao gồm tất cả
những thành tố của sức mạnh tổng lực quốc gia (CNP) (2). Những yếu
tố đó đều có mặt phần nào trong đề mục các hoạt động của tam chiến (3).
Chiến tranh tâm lý
và chiến thuật đánh lừa của Trung cộng , theo Michael Pillsbury và James
Holmes, nằm ở chỗ đánh lạc hướng và đánh lừa - một cốt lõi của chính trị và
thuật dùng binh Trung cộng . Theo Tôn Tử, kế sách tối ưu của chiến tranh là đánh
vào kế hoạch của đối phương, kế đó là đánh vào liên minh,
thứ ba là đánh vào quân đội đối phương và thứ tư mới là đánh
vào thành trì (4). Mục đích thực thụ chính là tâm trí của các
nhà lãnh đạo địch quốc, không phải là những thực thể vật chất như là quân đội.
James Holmes cũng cho rằng các phương sách che giấu tướng tài, giấu
năng lực chiến đấu, giả vờ là yếu kém khi không yếu kém và giả vờ là bị động
khi thực ra đang chủ động. Tam chiến đánh vào tâm lý, do vậy phù hợp
với triết lý chiến tranh của Trung cộng.
PLA đã thực
hành chiến tranh tâm lý không phải chỉ sau năm 2003 khi Tam Chiến được
phê duyệt. Michael Pillbury cho biết qua những bản dịch tài liệu PLA rằng họ đã
thành công trong việc tập trung tin tâm lý nhằm đánh lạc hướng kẻ địch
ở các cuộc chiến với Mỹ năm 1950, Ấn Độ 1962, Liên Xô 1969 và Việt Nam 1979.
Quân Trung cộng có thể bắn các hỏa tiển chứa truyền đơn,
giả âm thanh xe tải quân sự để làm đối phương xuống tinh thần. Cướp
tinh thần đối phương qua cách thả truyền đơn bằng bong bóng bay, cho quân
lính la to khi tiếp cận đối phương cũng là cách Trung cộng hay dùng (5).
Những quân nhân Việt Nam từng chiến đấu chống Trung cộng vẫn kể lại
câu chuyện dùng tiếng chiêng, trống của quân Trung cộng khi ra trận.
Với cách đòi hỏi
chủ quyền nhiều hơn mức cần thiết đến độ phi lý, để sau đó gặm nhấm
dẫn từng phần nhỏ, Trung cộng hiện áp dụng Tam Chiến đối với Nhật: từ
chối chấp nhận Okinawa là của Nhật! (6)
Những chiến thuật
mà các tư lệnh tam chiến đang thực thi bao gồm nhiều thứ khác câu chuyện
đòi “mười” để được “năm” hay “sáu” mà sau đó ra vẻ nhường một bước khiến cho
đối phương cảm thấy “à, Trung cộng có nhượng bộ!”.
Có những kết
hợp vừa là chiến tranh tâm lý vừa là chiến tranh truyền thông. Những phái đoàn
ngoại giao được hướng dẫn và thực tập thành thạo cách trả lời báo
chí quốc tế để giảm nhiệt các hành động lấn tới của Trung cộng ở
biển Đông, theo kiểu: “Chúng tôi chưa hề biết gì về việc đó”
và “Chuyện không có gì mà ầm ĩ”. Những sự kiện cắt cáp tàu Viking 2, Bình Minh
2 và đưa giàn khoan Hải Dương-981 vào EEZ Việt Nam được các nhà ngoại giao
Trung cộng hạ nhiệt bằng cách nói tránh, nói giảm tính cấp thiết của
vấn đề và đưa nạn nhân vào tư thế của người chăn cừu gọi sói
(Wolf Crying). Kiểu tam chiến này vô cùng nguy hiểm vì nạn nhân sẽ
dễ mắc lừa và không tự bảo vệ kịp khi Trung cộng thực sự ra tay như
trường hợp Gạc Ma 1988 và Scarborough 2012. Ru ngủ và đánh úp theo kiểu
xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị.
Trung cộng
cố tình xây dựng một sự “mờ ảo chiến lược”(strategic
ambiguity), như trường hợp họ đang áp dụng tại biển Đông, tức làm cho
rối mù một cách có chủ ý. Bản thân đường chữ U cũng trải qua nhiều
giai đoạn, từ chữ U -11 đoạn, sau đó 9 đoạn rồi 10 đoạn vào tháng 6.2013. (7)
Chiến tranh pháp
lý ( Legal
warfare hay lawfare): Là mũi nhọn chính (prominent role) trong 3 kiểu chiến
tranh đã nêu. Đây vừa là cách đấu tranh độc lập vừa cung
cấp tài liệu cho chiến tranh truyền thông.
Kiểu chiến tranh này có một ứng dụng bao gồm từ phù phép luật pháp cho
đến dựng đứng ra những điều luật nhằm thông báo các tuyên bố tranh chấp lãnh thổ và nguồn lực, đến sử
dụng các bản đồ giả tạo để “minh chứng” cho các yêu cầu lãnh thổ (nổi bật là đường chữ U bao gồm khoảng một
triệu dặm vuông biển Đông), đến sử dụng có chọn lọc những điều khoản của UNCLOS
và các công ước luật pháp quốc tế cho những mục đích cụ thể, đến
bóp méo luật pháp cho phép các cộng đồng ven
biển thành lập những đô thị (như Tam Sa chẳng hạn) nhằm mở rộng quyền quản hạt
và thực hiện quyền lực ở biển Đông.
Chiến tranh luật
pháp là một kỹ thuật dùng để chứng tỏ những hoạt động của Trung cộng
là có hiệu lực pháp lý và củng cố những nỗ lực tâm lý để tạo sự
nghi ngờ trong hàng ngũ đối phương, trong những giới chức trách quân
sự và dân sự cũng như trong cộng đồng quốc tế về tính chính đáng của hoạt động
đối phương. Do vậy chiến tranh luật pháp là thành phần quyết định trong nỗ lực
của Trung cộng nhằm xoá bỏ sự ủng hộ chính trị đối với đối phương và
tiến xa hơn thông tin cũng như kiến trúc vững chắc cho các tuyên bố chủ quyền
và tài nguyên của Trung cộng .
Phối hợp PLA
với các cơ quan biển khác là một phần của tam chiến - chiến tranh pháp luật của
Trung cộng . (8)
1. Kể những chuyện
gây thiện cảm
2. Gia tăng
tốc độ kể
3. Tránh nói
đến UNCLOS
Một kiểu lý giải
cho đường chữ U và những vấn đề pháp lý liên quan được tác giả Cao Qun phát
biểu: "Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên các đảo và các vùng nước xung
quanh nhưng chưa hề tuyên bố chủ quyền ở phía trong đường chữ U". (9)
Như vậy,
"Philippines đã diễn dịch sai có chủ ý (10). Khi mà
Trung cộng chưa nói rõ về đường chữ U, mà Phi đã hiểu méo mó
(distort the claim) và kiện Trung cộng đưa thành tiền đề cho thảo
luận là không phù hợp". (11)
Kiện và dùng các
biện pháp pháp lý là những hành động bình thường các nước văn minh trong cộng
đồng thế giới nhưng tác giả Cao Qun cho rằng đây là làm tổn hại hình ảnh
Trung cộng (damage China’s image) (12). Tại đây có thể là
một sự khác biệt về quan điểm luật pháp (giữa hai bên, hai nước), và cũng có
thể là một sự mù mờ có chủ đích.
Chiến
tranh truyền thông (Media warfare): Là chìa khóa để giành lấy thế thắng
trên phương diện chiến tranh tâm lý và chiến tranh pháp lý. Giới phân tích đã
định nghĩa chiến tranh thông tin (còn gọi là chiến tranh tư
tưởng công chúng) là một hoạt động liên tục,
không ngừng nghỉ nhắm đến tác động nhận thức và thái độ. Chiến tranh thông tin
nhấn mạnh đến tất cả các công cụ truyền tin và ảnh hưởng công chúng như phim
ảnh, truyền hình, sách báo, internet, và mạng lưới truyền thông toàn cầu (đặc biệt là Xinhua và CCTV). Đây là trách nhiệm quốc gia đối với PLA
vừa là nhiệm vụ nội địa đối với công an vũ trang nhân dân.
Tác động xã hội của
việc tuyên truyền này trong cộng đồng Trung cộng là rất lớn. Hình ảnh bà
cụ Triều Tiên ôm hôn chiến sĩ Trung cộng trong chiến tranh Triều
Tiên và hình ảnh một người Âu tên Lary khen ngợi sức mạnh Triều - Trung
là những hình tượng tuyên truyền có sức ảnh hưởng rất lớn. (13)
Những phương
tiện này được sử dụng để đạt mục đích như duy trì tình hữu nghị của
Trung cộng và đồng minh, giữ được ủng hộ của công chúng trong và
ngoài nước, làm suy giảm ý chí chiến đấu của đối phương và thay đổi đánh giá
tình hình của đối phương.
Ngoài tuyên truyền
trong nước và khu vực, Bắc Kinh còn quan tâm đến tầm quốc tế của tuyên truyền:
“Phải cố gắng nâng
cao quyền ngôn luận quốc tế. Quyền ngôn luận quốc tế là bộ phận hợp thành quan trọng
của quyền lực mềm quốc gia. Hiện nay, tổng thể bố cục ngôn luận quốc tế là
phương Tây mạnh, Trung cộng yếu, Trung cộng thường có lý
mà không nói ra được”. (14)
PLA phân loại
chiến tranh thành 3 dạng là chiến tranh (zhanzheng; 战争), chiến dịch (zhanyi; 战役) và trận chiến (zhandou; 战斗). Mỗi cấp độ sẽ có hướng dẫn hoạt động cụ thể đó là chiến
lược (zhanlue, 战略), phương pháp cho
từng chiến dịch (zhanyi fangfa; 战役方法; hoặc zhanfa; 战法) và chiến thuật (zhanshu; 战术). Tam chiến được phân loại ở mức chiến dịch nhưng có thêm
phần áp dụng gia tăng của chiến lược và chiến thuật. Hơn nữa, ứng dụng tam chiến
cho thấy niềm tin của PLA rằng chiến tranh không chỉ là đấu tranh quân
sự mà còn là sự can dự sâu trong các phạm vi luật pháp, đối ngoại, kinh tế và
chính trị (15). Một cuộc đấu tranh không tiếng súng, đã diễn ra và
rèn giũa tính sẵn sàng của quân đội Trung cộng từng ngày từng giờ.
Bốn trụ cột của
chiến tranh truyền thông :
Một là, chấp hành từ
trên xuống, có nghĩa là nỗ lực của cuộc chiến này phải từ lãnh đạo từ cao đi
xuống (Quân ủy Trung Ương và Đảng Cộng sản Trung Quốc) về cả nội dung và thời
gian biểu.
Hai là, nhấn mạnh
tiên hạ thủ vi cường, tức phát thanh, phát sóng, phát hình trước, dẫn dắt cuộc
tranh luận (framing the debate). Nhấn mạnh tính chính đáng và cần thiết của các
hoạt động, nhấn mạnh quốc lực và phô diễn sức mạnh vượt trội. Làm tê
liệt ý chí chiến đấu của đối phương.
Ba
là, uyển chuyển và phản ứng nhanh, tức là các hoạt động phải linh hoạt và thích
ứng với tình hình chính trị và quân sự. Đẽo gọt chương trình cho khán thính giả
mục tiêu trong nước và quốc tế.
Bốn
là, tận dụng các nguồn lực sẵn có, tức là kết hợp các hoạt động thời bình và
thời chiến. Bảo đảm quân dân trong nước đoàn kết trong chương trình tuyên
truyền cho thời chiến, nếu xảy ra.
Tam chiến và các
mục tiêu cụ thể của Trung cộng:
- Kiểm
soát tài nguyên trong vòng đường chữ U và tuyến phòng thủ thứ nhất
- Dò
ý định, quyết tâm và sự sẵn sàng của Mỹ trong bảo vệ Nhật, Philippines
và Đài Loan
- Làm
lỏng lẻo quan hệ Mỹ và Malaysia, Ấn Độ, Myanmar và các nước khác.
- Củng
cố ảnh hưởng Trung cộng ở biển gần.
- Củng cố bá
quyền Trung cộng và pha loãng sự “đi nước đôi” các nước
quanh biển Đông.
- Làm
khiếp vía Philippines, Việt Nam, Nhật và các thành phần trong vùng
- Nếu Mỹ và
Trung cộng chiến tranh, sử dụng khả năng phản can thiệp (gồm A2AD)
để đẩy Mỹ ra xa.
- Tránh
động chạm đến các cơ chế như ASEAN, UNCLOS và Tòa trọng tài quốc tế
(ICA). (16)
* Những yêu cầu
của Tam chiến
Tam chiến nhắm đến
vận động các nguồn thông tin cho phép PLA định hướng, phân tích và tập trung tư
tưởng quần chúng. Với những tác phẩm có tính thẩm quyền như Bài giảng về phối
hợp tác chiến (Lectures on Joint Operating Command Organ work) thì chiến tranh là
một quá trình, trong đó xung đột sẽ được định hướng từ việc đánh giá lực hủy
diệt và khả năng chiếm lãnh thổ đến việc tạo ra tâm lý khiếp sợ
(zhenshe xinli; 震慑心理), tâm lý
tấn công (daji xinli; 打击心理) và chiếm đoạt ý chí (duoqu yizhi; 夺取意志). CMC mong muốn tam chiến sẽ chiếm lĩnh vị trí chủ
chốt và thực hiện những chức năng bên cạnh những lãnh vực tấn công quân sự đơn
giản. (17)
Dùng loa phóng
thanh và sóng radio cho sĩ quan rành ngoại ngữ tuyên truyền về tính “phi nghĩa”
của đối phương, tạo tâm lý phản chiến cho binh sĩ đối phương.
Pillsbury cho biết PLA nghiên cứu kỹ tìm trình báo về quá trình tư tưởng, thông
tin đối phương và làm thành cơ sở dữ liệu về tổng hợp tâm lý, bố trí võ
khí và cả những khiếm khuyết về tâm lý của dàn tướng lĩnh đối phương.
PLA sẽ sử dụng để tạo công suất cao nhất.
Sử dụng hiệu ứng
của các đơn vị tù binh hay hàng binh, tẩy não họ để gây rối với tâm lý binh sĩ
đối phương cũng được Trung cộng sử dụng từ thời nội chiến.
(18)
* Tam chiến yêu
sách chủ quyền ở Bắc Cực và Nam Cực.
Kể từ 2008, truyền
thông Trung cộng đã đưa về các thành tựu và những quyền lợi hợp pháp
ở Bắc Cực (19). Văn phòng thông tin nhà nước (State Council
Information Office) đã xuất bản một bài báo nói về việc Trung cộng
bị từ chối đề nghị trở thành một quan sát viên thường trực của Hội Đồng
Bắc Cực và nhấn mạnh đã đến lúc “phải chấm dứt việc độc quyền cai quản việc của
Bắc Cực bởi các quốc gia Bắc Cực” (20).
Trung cộng
cũng đã thể hiện sự bất mãn vì không được tham gia cai quản Nam Cực và
than phiền bị đối xử như quốc gia hạng hai. Họ đã có tiến triển trong việc
giành được quyền tài trợ cho những nhà khoa học Úc nghiên cứu Nam Cực. Hành
động này tạo điều kiện thuận lợi cho Trung cộng bước vào các công
việc của Nam Cực (trong đó có việc xâm nhập vào một vùng mà Úc đang tuyên bố
chủ quyền). Với nhịp độ này, Trung cộng đang cho đăng tải hàng loạt
bài báo trên các tạp chí nghiên cứu liên quan các thảo luận về tài nguyên Nam
Cực cũng như những lợi ích tiềm năng đi kèm. (21)
Chiến tranh luật
pháp ở đây có phần mang kiểu cách Trung cộng cao. Bởi lẽ quan niệm
về luật pháp của Trung cộng có khác với thế giới bình thường. Luật
pháp quốc tế mà Trung cộng tham gia như UNCLOS vẫn có thể được diễn
dịch sao cho có lợi cho Trung cộng . Ví dụ như UNCLOS và khái niệm vùng nước
lịch sử. Trung cộng có truyền thống Khổng giáo và pháp gia, có thiên
hạ quan trung tâm là Hoa Hạ và có quan niệm khác biệt về vai trò cai trị bằng
luật (nguyên văn: "role & rule of law") và kể cả quan niệm của Trung cộng
về cách phương Tây áp dụng luật (22).
Đảng
cho rằng cần lấy luật để cai trị chứ không phải cai trị dựa trên luật pháp.
Đảng cộng
sản Trung Quốc quan niệm luật là công cụ để cai trị nhân dân chứ không
phải để tự hạn chế quyền hành của mình. Do vậy, không có nếp nghĩ nào
đề cao pháp luật - như là một công cụ hạn chế bớt quyền hành của giới
thống trị - có thể phát triển được ở Trung cộng . (23)
Chiến tranh luật
pháp được tiến hành theo kiểu cây gậy nhỏ (small stick) như dùng tàu chấp pháp tấn
công các ngư dân ở các vùng biển mà Trung cộng đòi hỏi chủ quyền
trong khi Hải quân hỗ trợ ngay phía sau. (24)
Các nhà phân tích
chiến lược Trung cộng cảm nhận được Mỹ đã vận động luật pháp thành
công trong công cuộc chiến vùng vịnh 1991 bằng cách khởi chiến thông qua sự cho
phép của Liên Hiệp Quốc và sau đó là áp dụng cấm vận cũng bằng luật.
Các loại
bản đồ của Trung cộng in ấn trên hộ chiếu, trên sách giáo khoa, quả
địa cầu… đã bị các nước, vùng lãnh thổ Philippines, Việt Nam, Ấn Độ, Đài Loan
phản đối. Song Trung cộng đã từng lý giải các loại bản đồ này theo
cách của họ. Chu Ân Lai trong các cuộc trò chuyện với Nehru năm 1954 và 1956 đã
nói rằng các bản đồ của Trung Quốc không phải thể hiện "tuyên bố chủ
quyền" của Trung cộng mà chỉ là những bản đồ từ các chế độ
trước truyền lại và "chưa được" sửa chữa. Cách nói này cho phép thủ
tướng Trung cộng che giấu mối quan tâm lâu dài của Bắc Kinh về các tuyên
bố chủ quyền của Trung cộng vào thời điểm nào đó trong tương lai.
Tác giả Stefan
Halper cũng đã nói về tâm lý dân tộc Trung cộng : Thích giải quyết bằng chính
trị hơn là bằng phân xử luật pháp (desire for political rather than legal
action). Dễ hiểu vì sao Trung cộng “bất bình” quá mức cần thiết
khi bị Philippines kiện. Hành động kiện là một việc làm bình thường và văn minh
nhằm tạo điều kiện cho công lý được soi rọi đến với người có chính nghĩa thế
nhưng có thể được xem như là hạ uy tín của Trung cộng , theo Cao Qun.
* Sáu thành phần
đánh lạc hướng của tam chiến/kết hợp cả ba loại chiến tranh:
Một,
uốn nắn các niềm tin có sẵn bằng cách đưa các chứng cứ giả, uốn nắn các niềm
tin này theo cách lý giải mới và bảo đảm rằng các hàm ý vừa thay đổi ấy có lợi
hơn.
Hai,
đưa ra những tư liệu dần dần sẽ hiệu quả hơn trong việc thay đổi nhận thức của
đối thủ theo thời gian.
Ba,
sử dụng thông tin chính xác càng nhiều càng tốt.
Bốn,
sử dụng các cách kiểm soát phản hồi và bảo đảm chúng có kết quả như mong
muốn.
Năm,
theo dõi chặt hiệu quả và loại trừ lập tức các hiệu ứng phụ không có ích.
Sáu,
thiết kế tổng quát, vẽ ra bức tranh tổng hợp, nguồn lực, thời gian và dòng chảy
thông tin vào đất phe địch.
Cách phản ứng mang
tính tam chiến cao của Trung cộng trước các cáo buộc vi phạm chủ
quyền, hacking hệ thống máy tính, dùng ra đa theo dõi tàu thuyền Nhật
Bản sẽ là:
- Không thừa
nhận gì cả.
- Không phủ
nhận gì cả.
- Yêu cầu
trưng ra bằng chứng.
- Đỗ lỗi cho 1 phía
nào khác.
- Tạo ra
những cáo buộc ngược lại đối phương sao cho thật là sinh động. (Theo Dr James
Mulvenor)
Tâm công thực ra
đã được các nhà quân sự cổ kim sử dụng nhiều, trong cuộc chiến Việt Nam, chiến
tranh tâm lý đã được sử dụng ra ngoài biên giới của cuộc tranh chấp.
“Ngoài ra, không
lực Mỹ đã không xác định đúng điểm trọng tâm ở miền Bắc Việt Nam. Trọng tâm vừa
là điểm mạnh, vừa là điểm yếu. Toàn bộ kết cấu của miền Bắc dựa trên
các yếu tố tinh thần. Đây là các mục tiêu tấn công và phá hủy trực
tiếp. Ngược lại, chúng ta lại nhận thức sâu sắc điểm yếu của đối thủ là các làn
sóng phản đối chiến tranh ngay chính trong lòng người dân tiến bộ Mỹ. Như một
học giả nước ngoài cho thấy: Võ Nguyên Giáp biết rõ “điểm trọng tâm thật sự
trong nền dân chủ của Hoa Kỳ là sự ủng hộ về mặt chính trị của người dân” (25).
Điều mà một số nhà
phân tích nhấn mạnh ở tam chiến là:
1) quan niệm về
chủ quyền đặc biệt lạ của Trung cộng ,
2) khái niệm
vô hình tướng (formlessness),
3) những ảnh hưởng
của tam chiến đến các năng lực, xóa mờ sự hiện diện của các bên khác, cụ thể là
Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương.
Trung cộng
không chấp nhận đồng đẳng ”Có đồng đẳng tức không có chủ quyền”.
Và chỉ có Trung cộng là có quyền hùng cứ một phương một cách phù hợp
nhất (26). Chiến tranh tâm lý của tam chiến cũng nhắm hướng đến sự mù
mờ ảo ảo, vô hình trạng (formlessness), lai vô ảnh khứ vô tung, che
giấu sức mạnh thực sự của Trung cộng .
Theo
Tôn Tử, tối ưu của cuộc chiến là đánh vào kế hoạch của địch (ý
chí chiến đấu). Giả vờ yếu thế ở chỗ mạnh và vờ mạnh ở chỗ yếu.
Từ năm 2003, tam chiến đã được thực hiện để đỡ dần cho PLA khi lâm chiến thực
thụ. Kỹ thuật xóa mờ của Trung cộng bao gồm uy hiếp kinh tế đến các
đồng minh, bạn hữu của Mỹ cộng với tuyên truyền Mỹ không có năng lực hỗ trợ
đồng minh. Kế đó là ngăn trở sự giám sát và sự hiện diện của Hải quân Mỹ, gia
tăng tầm với của Hải quân Trung cộng và sau cùng là đông
cứng những chiến lược xa bờ của Mỹ.
(27)
Trung cộng
quyết tâm đưa Mỹ vào thế thủ bằng tam chiến, và tận dụng cách mà họ cho
rằng Mỹ đã áp dụng để đuổi nước Anh khỏi Tân Lục Địa (28). Họ
khẳng định Mỹ sẽ bị Trung cộng hất cẳng, và kêu gọi các chính khách
phải lạnh lý tính trong chiến lược này. (29)
Thay lời kết
Trong bối cảnh Việt
Nam đang thường xuyên phải đấu tranh chống lại những hành động, lời phát ngôn
của nhà cầm quyền Trung cộng liên quan chủ quyền biển đảo và những
quan hệ đối ngoại, kinh tế, an ninh quốc phòng khác, việc tìm hiểu các loại
chiến lược, chiến thuật, sách lược của đối phương là điều cần thiết.
Điều này không
chỉ liên quan quân sự, quốc phòng mà còn đối với các lĩnh vực khác như kinh tế,
khoa học, ngoại giao và những lĩnh vực dân sự khác.