“Hiện nay mối hiểm họa mà chúng ta phải đương đầu càng
ngày càng trở nên nặng nề. Những mối khắc khoải đã ngậm nhấm các nhà lãnh đạo Trung
cộng từ bao thập niên qua giờ đây đang thúc đẩy lòng hiếu chiến của một cường
quốc đang lên. Sự thất bại trong thị trường chứng khoán, xảy ra ngay lúc nền
kinh tế vừa bắt đầu xuống dốc, đã làm cho một vết xây sát nhỏ trở thành
một khối u to lớn.”
Bình
luận của Aaron Friedberg và Gabriel Schoenfeld
LA Times ngày 14/9/2015
Từ bao lâu nay quyền lực của Đảng Cộng Sản Trung cộng (ĐCSTC) được dựa trên bốn
cột trụ chính: sự phát triển về kinh tế, lòng yêu nước cực đoan, sự đàn áp bằng
bạo lực, và ý thức hệ cộng sản. Cột trụ thứ tư cuối cùng hầu như đã mục nát
hoàn toàn khi Trung cộng tự do hóa nền kinh tế, với khẩu hiệu như “Lý Thuyết
Marx-Lenin Vô Địch Muôn Năm” bị thay thế bởi khẩu hiệu “Làm Giàu Là Vinh
Quang.” Giờ đây, cột trụ thứ nhất cũng đang bắt đầu bị lung lay.
Mọi người đang chú mục theo dỏi thị trường chứng khoán Trung cộng đang xoay
vòng. Cơn xuống dốc thảm hại của thị trường chứng khoán và biện pháp phá giá
bất ngờ đồng nhân dân tệ (renminbi) đã làm rung chuyển những thị trường chứng
khoán trên thế giới. Người ta đang lo sợ là một cuộc chiến tranh tiền tệ
(currency war) sẽ xảy ra cũng như việc Trung cộng có thể sẽ theo đuổi những
chính sách thương mại nhằm làm cho các nước lân bang nghèo khó đi
(beggar-thy-neighbor trade policies).
Xét vì chỉ có 1% Tổng Sản Lượng Nội Địa (TSLNĐ - GDP) của chúng ta bắt nguồn từ
các giao dịch thuơng mại với Trung cộng, nền kinh tế Hoa Kỳ chắc sẽ không hề
hấn gì. Tuy nhiên, những biến động trong mùa hè vừa qua có thể nhanh chóng đưa
đến những biến chuyển gây đe dọa cho nền hòa bình tại Á Châu cũng như tạo nên
một thử thách về chiến lược cho Tây Phương.
Nền kinh tế Trung cộng đã phát triển chậm hơn trước trong một thời gian khá
lâu. Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ này, mức phát triển kinh tế trung bình
hàng năm của Trung cộng cao hơn 10%. Nhưng trong những năm gần đây, mức phát
triển chỉ quanh quẩn ở mức 7% -- nếu người ta có thể tin tưởng những con số
thống kê của nhà nước; mà thường thì các con số đó không đáng tin chút nào.
Người dân Trung cộng đã bắt đầu cảm thấy các hậu quả. Cả chính phủ Trung cộng cũng
cảm thấy điều đó, khi thanh danh của chính phủ, vốn từng được xem là một nhà
quản lý kinh tế tài ba, đang xuống dốc song song cùng lúc với hình ảnh trong
biểu đồ đo độ sụt giảm của mức phát triển TSLNĐ.
Tập Cận Bình, lên cầm quyền vào năm 2012, nhất quyết đánh bóng uy tín của giới
lãnh đạo trong lãnh vực quan trọng này. Họ Tập nỗ lực làm hai điều. Điều đầu
tiên là thi hành chiến dịch bài trừ tham nhũng, nhằm mua chuộc cảm tình của
công chúng nhưng đồng thời cũng là một phương tiện để thanh trừng loại bỏ các
phần tử đối lập về chính trị. Ba năm sau khi bắt đầu chiến dịch, vị chủ tịch
nước Trung cộng đã gây nhiều thù chuốc nhiều oán. Có rất nhiều người cay đắng
căm thù họ Tập. Những kẻ thù này, vốn là những người từng có quyền cao chức
trọng, căm thù khi gia sản và gia đình họ lâm vào hiểm họa.
Điều thứ hai họ Tập làm là tìm nhiều cách để tiếp thêm sinh lực cho nền kinh tế
Trung cộng. Một biện pháp mà ông ta ưa chuộng là đẩy thị trường chứng khoán đi
lên; ông ta hứa hẹn là biện pháp đó sẽ mang đến cho Trung cộng cả thịnh vượng
cá nhân lẫn thịnh vượng quốc gia. Ngay trước khi có những rung chuyển báo động
sự sụp đổ của thị trường chứng khoán vào tháng 6, các cơ quan thông tin nhà
nước đã khuyến khích toàn dân mua chứng khoán.
Khi thị trường chứng khoán Trung cộng đi lên, đối với những đồng sự của họ Tập
trong Bộ Chính Trị (Politbureau) thì đó là một thành quả thiên tài; hàng triệu
người trở nên giàu sụ trên giấy tờ, và ĐCSTC có công làm nên điều đó. Thế nhưng
giờ đây, đối với những đồng sự đó, và đối với bao nhiêu nhà đầu tư đang méo mặt,
đó lại là một hành vi quản trị tệ hại, kém cỏi vô cùng.
Những hành động của Trung cộng đã gây nên sự báo động về tài chánh trong toàn
cỏi Á Châu và từ đó đã khuyến khích các nước trong vùng hợp tác với nhau để cố
gắng kềm chế con hổ đang càng ngày càng hung tợn.
Mất đi ý thức hệ và quản lý kinh tế, hai trong bốn cột trụ nâng đở quyền lực,
đến giờ phút này, ĐCSTC chỉ còn lại có hai cột trụ cuối cùng, đàn áp bằng bạo
lực và lòng yêu nước cực đoan.
Vì thế họ Tập đã thẳng tay đàn áp những người chống đối, bắt giữ những người
chủ trương dân chủ (democracy advocates), các chuyên gia về môi trường
(environmentalists), các luật sư, những người cổ vũ quyền hạn cho các nhóm dân
thiểu số, và bất cứ ai khác có thái độ hay lời lẽ xung khắc với chế độ. Cùng
một lúc, họ Tập đẩy mạnh chiến dịch thu hút sự ủng hộ của người dân trong nước
bằng cách quấy nhiễu các nước lân bang, nhất là người Nhật Bản "đáng
ghét". Trong ba năm qua, Trung cộng đã đơn phương công bố vùng định danh
phòng không (air-defense identification zone) phía trên các hòn đảo mà Nhật Bản
xem là của họ, đưa giàn khoan dầu đến hoạt động ngoài khơi Việt Nam, và xây
dựng một lô các đảo nhân tạo với trang bị quân sự tại các địa điểm chiến lược
trong vùng biển nam Trung Hoa.
Những hành vi trên đã tạo ra tình trạng báo động tại các quốc gia ở Á Châu,
khiến nhiều nước tăng cường binh lực và bắt tay hợp tác trong nỗ lực kềm chế
con hổ càng ngày càng hung hăng.
Tinh thần hiếu chiến của Trung cộng, được xem như là một chính sách an ninh
quốc gia, cuối cùng có thể bị thất bại. Thật vậy, người ta không thể giải thích
được những việc làm của Trung cộng nếu không để tâm đến những vấn đề nội địa
đang xảy ra. Họ Tập và ĐCSTC phải trả giá cho những đối kháng bên ngoài nhưng
được cái lợi là củng cố được gọng kềm cai trị bên trong Trung Hoa.
Một số quan sát viên cho rằng điều hay là Trung cộng đang lâm vào nghịch cảnh.
Họ nghĩ rằng khi một nước bận bịu nhiều với những vấn đề nội địa, nước đó sẽ
kém hung hăng hơn, và những nước khác sẽ không cần đến nhiều biện pháp ngoại
giao, kinh tế, và quân sự để đối phó với nước đó. Điều đó là điều mộng tưởng vì
căn bản là những quan sát viên đó không hiểu được những động lực chính trị
trong nội địa Trung Hoa.
Những
cuộc xung đột trong và ngoài Trung cộng có nhiều triển vọng sẽ xảy ra tương
đồng với tầm vóc mức độ của cuộc khủng hoảng trong nước mà ĐCSTH phải đương
đầu. Không phải ngẫu nhiên mà Trung cộng dám đưa tàu chiến vào hải phận Hoa Kỳ
gần Alaska trong tháng này, đó là một điều chưa hề xảy ra.
Mặc
dù theo đuổi chính sách “xoay trục” tại Á Châu, mà Hoa Kỳ đã khoe khoang nhiều
nhưng lại chẳng làm được bao nhiêu, Hoa Kỳ không sẵn sàng chuẩn bị để đối phó
với thử thách là duy trì hòa bình trong vùng Thái Bình Dương. Hiện nay mối hiểm
họa mà chúng ta phải đương đầu càng ngày càng trở nên nặng nề. Những mối khắc
khoải đã ngậm nhấm các nhà lãnh đạo Trung cộng từ bao thập niên qua giờ đây
đang thúc đẩy lòng hiếu chiến của một cường quốc đang lên. Sự thất bại trong
thị trường chứng khoán, xảy ra ngay lúc nền kinh tế vừa bắt đầu xuống dốc,
đã làm cho một vết xây sát nhỏ trở thành một khối u to lớn.
Aaron Friedberg, giáo sư chính trị học tại Đại Học
Princeton, là tác giả quyển sách “Cuộc Thi Đua Giành Ưu Thế: Trung Hoa, Hoa Kỳ,
và Cuộc Tranh Đấu Để Đạt Quyền Làm Chủ Tại Á Châu.”
Gabriel Schoenfeld, học
giả nghiên cứu (senior fellow) tại Hudson Institute, là chuyên gia về tình báo
và an ninh quốc gia.
(TĐG
phỏng dịch)
Bản
chính bằng tiếng Anh: