“Có thể nói, ngụy biện là những lối sáo ngữ liến
thoắng nhằm vào mục đích lôi cuốn người nghe/đọc, thay vì cung cấp cho họ một
sự thực. Bởi vì ngụy biện là những lý lẽ mà bề ngoài có vẻ logic, nên chúng có
khả năng thuyết phục những người không chịu khó suy nghĩ.”
Nhận diện 'thảm họa' trong văn hóa tranh luận của người Việt
Tranh luận trên các diễn đàn công cộng là một hình thức trao đổi ý kiến
không thể thiếu được trong một xã hội văn minh. Ở nhiều nước, lưu lượng của
những tranh luận cởi mở và nghiêm túc được xem là một dấu hiệu của một xã hội
lành mạnh. Ở các nước phương Tây, hầu như ngày nào báo chí cũng có những bài
của những cây bỉnh bút tranh luận về một vấn đề nóng nào đó. Trên tivi cũng có
những cuộc tranh luận trực tiếp giữa hai hay nhiều người về những chủ đề từ
“đại sự” đến những vấn đề tưởng như nhỏ nhất. Trong các hội nghị khoa học,
trước một vấn đề còn trong vòng nghi vấn, người ta cũng có những chuyên gia
tranh luận dưới dạng những bài giảng khoa học.
Nhưng thế nào là tranh luận nghiêm túc? Nói một cách ngắn gọn, cũng như
trong một cuộc đấu võ, một tranh luận nghiêm túc là một cuộc tranh luận có qui
tắc, mà trong đó người tham gia không được, hay cần phải tránh, phạm luật chơi.
Những qui tắc chung và căn bản là người tham gia chỉ phát biểu bằng cách vận
dụng những lý lẽ logic, với thái độ thành thật và cởi mở, chứ không phát biểu
theo cảm tính, lười biếng, hay biểu hiện một sự thiển cận, đầu óc hẹp hòi.
Để đạt những yêu cầu này, người tranh luận nghiêm túc trước khi phát biểu
hay đề xuất ý kiến, đưa ra lời bình phẩm của mình, cần phải xem xét tất cả các
trường hợp khả dĩ, phải cân nhắc những quan điểm và những cách giải thích khác
nhau, phải đánh giá ảnh hưởng của sự chủ quan và cảm tính, phải tập trung vào
việc tìm sự thật hơn là muốn mình đúng, phải sẵn sàng chấp nhận những quan điểm
không được nhiều người ưa chuộng, và phải ý thức được định kiến và chủ quan của
chính mình. Khi tranh luận phải nhất quán là chỉ xoay quanh chủ đề bàn luận,
luận điểm bàn luận chứ không đi lạc đề. Không công kích vào cá nhân và nhân
thân của người tham gia tranh luận.
Đó là những đòi hỏi khó khăn cho một cuộc tranh luận nghiêm túc có ý nghĩa,
và không phải ai cũng có khả năng đạt được những yêu cầu này, nhất là đối với
người Việt vốn chưa quan với văn hóa tranh luận. Do đó, không mấy ai ngạc nhiên
khi thấy có quá nhiều trường hợp phẩm chất của những cuộc tranh luận giữa người
Việt rất thấp. Chỉ cần xem qua những cái-gọi-là “tranh luận” trên các diễn đàn
báo chí (và nhất là các “chat room” hay blog), người ta có thể thấy đó không
phải là tranh luận, mà là những cuộc đụng độ giũa các cá nhân tham gia tranh
luận, những cuộc chửi bới, chẳng có lý luận của người tranh luận. Ngoài ra, đối
với một số người tham gia bình luận về một câu chuyện nào đó là một cuộc dàn
xếp, một sự đóng kịch, nhằm tung hỏa mù hoặc lên lớp, hoặc a dua theo đám đông.
Đó là những kịch bản ngớ ngẩn đến tội nghiệp. Ngớ ngẩn là vì người xuất hiện
chẳng nói được gì cho đầy đủ, mà cũng chẳng phân tích một vấn đề gì cho đến nơi
đến chốn.
Thật vậy, rất nhiều trường hợp, những cuộc tranh luận giữa người Việt chỉ
là những cuộc chửi lộn, mà trong đó người ta tha hồ vung vít, ném liệng vốn
liếng chữ nghĩa qua lại một cách hỗn độn, mà chẳng cần để ý đến logic hay các
nguyên tắc của tranh luận là gì. Hơn nữa, rất dễ dàng nhận thấy rằng trong các
cuộc tranh luận đó người ta nhắm vào mục tiêu là nhân thân, cá nhân của người
tranh luận chứ không nhắm vào quan điểm và lý lẽ của người đó. Thay vì tranh
luận thẳng vào vấn đề, người ta tìm cách gắn cho đối phương một nhãn hiệu, và
từ đó làm lu mờ đi quan điểm của họ. Trong hầu như những tranh luận, nhiều
người cố tìm hay tạo cho mình một vị trí đạo cao đức trọng cả bằng cách gắn cho
đối phương những danh từ và tính từ mang tính miệt thị, một thủ đoạn có khả
năng làm cho một cuộc tranh luận trở nên một cuộc ẩu đã ngôn từ đinh tai nhức
óc thay vì là một trao đổi khoa học.
Thực ra, đó là một hình thức ngụy biện, một lỗi lầm cơ bản nhưng nghiêm
trọng trong tranh luận. Nói một cách đơn giản, ngụy biện là những nhầm lẫn
trong lý luận và suy luận. Ngụy biện khác với logic. Logic, nói một cách ngắn gọn
trong trường hợp này, là những qui ước quản lý tính nhất quán trong việc sử
dụng ngôn ngữ. Giới triết học Tây phương đã bỏ khá nhiều công sức để phân biệt
thế nào là logic và thế nào là ngụy biện. Aristotle có lẽ là một nhà logic học
đầu tiên có công phát triển các qui tắc và hệ thống suy luận. Trong quá trình
làm việc, ông phát hiện ra nhiều lỗi lầm mà sau này người ta quen gọi là những
“ngụy biện.” Mặc dù Aristotle là một nhà nhà logic học đầu tiên có công liệt kê
và phân loại những loại ngụy biện, thầy của ông (Plato) mới xứng đáng được vinh
danh như là một nhà triết học đầu tiên đã có công sưu tầm những ví dụ về ngụy
biện. Kể từ khi Plato và Aristotle, đã có khá nhiều nhà triết học và logic học
như John Locke, John Stuart Mill, Jeremy Bentham, và Arthur Schopenhauer cũng
có nhiều cống hiến quan trọng trong việc nghiên cứu về ngụy biện.
Điều đáng chú ý là những lỗi lầm về ngụy biện ở người Việt lại hay thấy
trong giới có học. Chỉ cần điểm qua báo chí, websites, blog, v.v... chúng ta dễ
dàng thấy rất nhiều cái-gọi-là "tranh luận" thật ra chỉ là ngụy biện.
Tuy nhiên, nhiều người vẫn chưa biết đó là những ngụy biện, mà thậm chí còn hết
lời khen ngợi kẻ ngụy biện là ... uyên bác! Điều này cho thấy trong những người
Việt học cũng có người rất lười biếng suy nghĩ và chẳng phân biệt được thật và
giả, không có khả năng nhận dạng được ngụy biện. Phải ghi nhận một điều là
internet đã rất tuyệt vời, vì qua những "tranh luận" và chửi bới của
những kẻ tham gia trên internet, chúng ta biết được bộ mặt xấu xí đằng sau những
người mang nhãn mác "trí thức" hay "có học". Những kẻ này
tương đối nguy hiểm, vì với cái nhãn mác "có học" đó, họ có cơ hội
làm lũng đoạn xã hội và trở thành những con vi khuẩn làm nhiễm trùng nền học
thuật nước nhà. Do đó, cần phải giúp họ nhận ra đâu là ngụy biện và đâu là
logic.
Thực ra, nhận dạng ngụy biện không phải là một việc làm khó khăn. Nói chung
chỉ với một lương năng bình dân, người ta có thể phân biệt một phát biểu mang
tính ngụy biện với một phát biểu logic. Tuy nhiên, cũng có nhiều dạng thức ngụy
biện mà vẻ bề ngoài hay mới nghe qua thì rất logic, nhưng thực chất là phi
logic. Những loại ngụy biện núp dưới hình thức “khoa học” này không dễ nhận
dạng nếu người đối thoại thiếu kiến thức về logic học hay thờ ơ với lý lẽ. Do
đó, một điều quan trọng trong tranh luận là cần phải phát hiện và nhận dạng
những hình thức ngụy biện, và quan trọng hơn, cần phải hiểu tại sao chúng sai.
Có thể phân loại ngụy biện thành nhiều nhóm khác nhau liên quan đến việc đánh
lạc vấn đề, lợi dụng cảm tính, thay đổi chủ đề, nhầm lẫn trong thuật qui nạp,
lý luận nhập nhằng, phi logic, và sai phạm trù.
Trong khuôn khổ giới hạn, người viết bài này không có tham vọng trình bày
tất cả những loại ngụy biện một cách chi tiết (vì việc này đã được hệ thống hóa
trong nhiều sách về logic học), mà chỉ muốn liệt kê ra những loại ngụy biện
thường hay gặp trong báo chí và truyền thông, hầu giúp bạn đọc có thể phân biệt
giữa chân và giả.
Liệt kê sau đây là một loạt những ngụy biện phổ biến hay thấy ở người Việt.
Những ngụy biện này có thể phân thành 7 nhóm như sau:
- Đánh
tráo chủ đề
- Lợi
dụng cảm tính và đám đông
- Làm lạc
hướng vấn đề
- Qui nạp
sai
- Nhập
nhằng đánh lận con đen
- Phi
logic
- Các
nhầm lẫn khác
Nhóm
1. Đánh tráo chủ đề
1. Công kích cá nhân (ad hominem). Đây là một loại ngụy biện phổ biến nhất, thấp kém nhất,
nguy hiểm nhất, nhưng có “công hiệu” nhất, vì nó tấn công vào cá nhân của người
tranh luận, và tìm cách trốn tránh luận điểm của cá nhân đó. Hình thức ngụy
biện này thường xuất hiện dưới dạng: Ông
A phát biểu về một vấn đề; ông B tấn công vào cá nhân ông A, và làm cho người
ta nghi ngờ luận điểm của ông A. Tuy nhiên, có thể không có mối liên hệ nào
giữa cá nhân và luận điểm của ông A.
Có hai hình thức thuộc loại
ngụy biện này. Thứ nhất là dưới hình thức sỉ nhục, hay chửi rủa. Khi bất đồng ý
kiến, người ngụy biện chỉ việc công kích vào cá nhân của người phát biểu. Chẳng
hạn như “Ông nói là những người vô thần
có đạo đức, vậy mà chính ông là người từng li dị với vợ con,” hay “Ông là người làm kinh tế, không biết gì về
khoa học, mà nói chuyện khoa học”. Đây là một ngụy biện, bởi vì sự thật của
phát biểu không tùy thuộc vào cá nhân của người phát biểu, mà là logic của lời
phát biểu. Cũng nằm trong loại ngụy biện này là thói dùng một đặc điểm của một
vật thể nào đó để ứng dụng cho một cá nhân hay một vật thể khác. Ví dụ: “Anh học của Tây có vài chữ mà đã quay lại
chửi bới đồng nghiệp à? Anh là con công cháu cha, anh không hiểu gì về sự nghèo
khổ của chúng tôi.”
2. Lợi dụng quyền lực (ad verecundiam). Đây là loại ngụy biện dùng những nhân vật nổi tiếng
hay được nhiều người ái mộ để tìm sự ủng hộ cho luận điểm của mình. Chẳng hạn
như “Isaac Newton là một thiên tài, và
ông tin vào Thượng đế,” làm như ông Newton là người có thẩm quyền để chúng
ta tin vào Thượng đế. Thẩm quyền không thuyết phục được ai; chỉ có sự thật, lý
lẽ và logic mới quan trọng và có khả năng thuyết phục.
3. Lợi dụng nặc danh. Trong trường hợp này, người ngụy biện không nêu danh tính người có thẩm
quyền, và vì không ai biết tên người có thẩm quyền nên không ai có thể kiểm
chứng sự chính xác của lời phát biểu. Một loại ngụy biện khác có quan hệ với
loại này là dùng lời đồn đại để làm cơ sở lập luận. Giới công an hay sử dụng
ngụy biện này, ví dụ như “Một viên chức
tình báo cho biết chính anh từng hoạt động cho địch.”
4. Lợi dụng tác phong. Loại ngụy biện này dùng tác phong hay cách làm việc hay một đặc tính nào
đó của đối tượng để cố thuyết phục về tính hợp lý của phát biểu. Tiêu biểu cho
loại ngụy biện này là những phát biểu như “Nixon
thất cử vì ông ta thường hay ra mồ hôi trên trán,” hay “Tại sao anh không nghe theo lời khuyên của
anh chàng ăn mặc bảnh bao đó?” Thực ra, “bảnh bao” và “mồ hôi trên trán”
chẳng có dính dáng gì đến vấn đề đang bàn thảo.
5. Luận điệu cá trích. Loại ngụy biện này thường hay được ứng dụng khi một người nào đó đưa vào
những phát biểu không dính dáng gì đến vấn đề đang tranh luận, nhằm mục đích
đánh lạc hướng vấn đề. Ví dụ: “Anh có thể
nói rằng tử hình là một hình thức không có hiệu quả trong việc chống lại tội
phạm, nhưng còn nạn nhân của tội phạm thì sao? Gia đình của nạn nhân sẽ nghĩ gì
khi họ thấy tên sát nhân người thân của họ bị giam giữ trong nhà tù bằng đồng
tiền của chính họ. Họ có nên nuôi dưỡng những tên sát nhân như thế không?”
6. Luận điệu ngược ngạo. Bằng chứng luôn luôn là gánh nặng của người phát
biểu. Do đó, tìm cách chuyển gánh nặng đó cho một người khác là một thủ đoạn
của những người ngụy biện. Chẳng hạn như trong câu này “Anh nói rằng ăn nhiều mỡ không liên quan đến cholesterol, nhưng anh có
thể chứng minh điều đó không?” Đáng lẽ người phát biểu phải chứng minh,
nhưng công việc đó lại được chuyển cho người đối thoại!
Nhóm 2. Lợi dụng
cảm tính và đám đông
7. Dựa vào bạo lực (ad baculum). Ngụy biện dựa vào bạo lực thực chất là
một sự đe dọa, nhằm mục đích gây áp lực cho người đối thoại phải chấp nhận một
kết luận nào đó. Loại ngụy biện này thưởng được giới chính khách dùng, và có
thể tóm gọn bằng một câu “chân lí thuộc về kẻ mạnh”. Sự đe dọa không hẳn chỉ
xuất phát từ người phát biểu, mà có thể từ một người khác. Ví dụ như “Những ai không tin vào chính sách của Nhà
nước sẽ phải trả giá đắt”, hay “Được
rồi, tôi đã biết số điện thoại của anh và biết anh đang ở đâu. À, tôi có nói
cho anh biết là tôi mới mua một cây súng ngắn chưa nhỉ?”
8. Lợi dụng lòng thương hại (ad misericordiam). Đây là một loại ngụy biện
dựa vào lòng trắc ẩn của người đối thoại để người đối thoại chấp nhận lý lẽ của
mình. Ví dụ như “Anh ấy không có giết
người bằng búa. Làm ơn đừng tuyên án anh ấy có tội, anh ấy đang trải qua một
giai đoạn khủng hoảng tinh thần,” hay “Tôi
hy vọng anh sẽ chấp nhận đề nghị này, chúng ta đã tiêu ra ba tháng nay để bàn
rồi đấy.”
9. Lợi dụng hậu quả (ad consequentiam). Ngụy biện loại này thường được biểu hiện qua cách
phát biểu “A hàm ý B, B là sự thật, do đó A là sự thật”. Ví dụ: “Nếu vũ trụ được một đấng chí tôn thượng đế
tạo nên, chúng ta có thể thấy những hiện tượng được tổ chức một cách thứ tự. Và
hiện tượng chung quanh chúng ta quả rất thứ tự, vậy đấng chí tôn thượng đế
chính là người tạo nên vũ trụ,” hay “Anh
phải tin vào Đảng Cộng hòa, chứ nếu không cuộc đời này sẽ chẳng có ý nghĩa”
(hay là nói một cách ngược lại: cuộc sống này chẳng có ý nghĩa gì nếu không có
Đảng cộng hòa!)
10. Lạm dụng chữ nghĩa. Đây là một loại ngụy biện dựa vào dùng những chữ
mang cảm tính cao để gắn một giá trị đạo đức vào một đề nghị hay một câu phát
biểu. Chẳng hạn như trong câu “Bất cứ một
người có lương tri nào cũng phải đồng ý rằng về Việt Nam ăn Tết là làm lợi cho
cộng sản,” chữ “lương tri” được cài vào nhằm cho người đối thoại phải
nghiêng theo những người có lương tri.
11. Dựa vào quần chúng (ad numerum). Loại ngụy biện này tin rằng nếu có
nhiều người ủng hộ một đề nghị nào đó, thì đề nghị đó phải đúng. Ví dụ như “Đại đa số người dân trong cộng đồng ủng hộ
ông Minh, vậy phát biểu của ông Minh ắt phải đúng.”
Nhóm 3. Làm lạc
hướng vấn đề
12. Lý lẽ chẻ đôi. Loại ngụy biện này thường phân định một vấn đề thành hai giá trị: trắng
và đen, bạn và thù, có và không, v.v.. dù trong thực tế, có hơn hai lựa chọn.
Chẳng hạn như “Hoặc là anh hợp tác với
tôi hay là anh chống tôi, anh chọn hướng nào, yes hay là no?”
13. Lý lẽ ngờ nghệch (ad ignorantiam). Loại ngụy biện này, như tên gọi ám
chỉ, xuất phát từ sự ngớ ngẩn. Một trong những cách nói thông thường nhất trong
loại ngụy biện này mà giới ngụy biện hay dùng là nếu một điều gì đó chưa được
chứng minh là sai (hay giả) thì điều đó là đúng (hay thật). Ví dụ: “Bởi vì các nhà khoa học chưa chứng minh
dioxin có thể gây ra dị thai, do đó dioxin không thể gây ra dị thai,” hay
kiểu lý luận của “nền kinh tế phát triển và xã hội ổn định mấy năm nay, không
có lý do gì phải cần đến dân chủ”.
14. Lý luận lươn trạch. Loại ngụy biện này cho rằng nếu một sự kiện xảy ra,
các sự kiện có hại khác sẽ xảy ra. Chẳng hạn như “Nếu chúng ta hợp pháp hóa cần sa, công chúng sẽ bắt đầu hút cần sa, và
chúng ta cũng sẽ phải hợp pháp hóa á phiện. Rồi chúng ta sẽ là một quốc gia với
những người ăn bám vào xã hội. Do đó, chúng ta không thể hợp pháp hóa á
marijuana”.
Hay một đoạn ví dụ khác:” Tiếc thay một cuộc cải cách về kinh tế, bình
bị, tài chánh, xã hội, nông nghiệp như vậy, đang trên đường thành công rực rỡ:
bị tan vỡ, bị huỷ bỏ chỉ vì tham vọng đánh Đại việt của Vương An Thạch. Mà đau
đớn biết bao, khi người phá vỡ chỉ là một thiếu phụ Việt ở tuổi ba mươi. Giá
như Thạch không chủ trương Nam xâm, chỉ cần mười năm nữa, toàn bộ xã hội Trung
quốc thay đổi; rồi với cái đà đó, thì Trung quốc sẽ là nước hùng mạnh vô song,
e rằng cứ muôn đời mặt trời vẫn nở phương Đông chứ không ngả về Tây như hồi thế
kỷ 18 cho đến nay bao giờ.”
15. Mệnh đề rời rạc. Đây là loại ngụy biện dùng hai (hay nhiều hơn hai) mệnh đề chẳng dính
dáng gì với nhau để làm thành một phát biểu hay kết luận. Ví dụ: “Anh ủng hộ tự do dân chủ và quyền mang vũ
khí hay không?” hay “Anh đã ngưng làm
ăn trái phép chưa?” Câu hỏi sau thực ra hỏi hai vấn đề “Anh từng làm ăn trái phép?” và “Anh đã ngừng hoạt động hay chưa?”
16. Đơn giản hóa. Đây là một loại ngụy biện mà người phát biểu cố tình biến một quan niệm
trừu tượng thành một điều cụ thể để bắt lấy thế thượng phong trong đối thoại
(nhưng là ngụy biện). Ví dụ: “Tôi để ý
thấy anh mô tả ông ta là một người quỉ quyệt. Vậy tôi hỏi anh cái “quỉ quyệt”
đó nó nằm ở đâu trong bộ não? Anh không chỉ ra được cho tôi; do đó, tôi có thể
nói cái quỉ quyệt không có thực.”
Nhóm 4. Qui nạp sai
17. Khái quát hóa vội vã. Loại ngụy biện này cũng khá phổ biến. Nó dùng một ví
dụ hay trường hợp nhỏ và từ đó khái quát hóa cho một cộng đồng. Chẳng hạn như “Ông ấy là một tay đạo đức giả. Do đó, các
bạn bè của ông ấy cũng giả dối.”
18. Khái quát hóa không đúng chỗ. Đây là loại ngụy biện mà người sử dụng chúng thường
áp dụng một qui luật chung cho một tình huống hay một cá nhân. Chẳng hạn như “Người cộng sản là vô thần. Anh là người theo
chủ nghĩa cộng sản, vậy anh chắc chắn là một người vô thần.”
19. Kéo dài tính tương đồng. Trong loại ngụy biện này, người dùng nó đề nghị một
điều lệ chung chung, rồi áp dụng nó cho mọi trường hợp và cá nhân. Ví dụ: “Tôi tin rằng chống luật pháp bằng cách phạm
luật pháp là một điều sai trái”, hay “Nhưng
quan điểm đó ghê tởm lắm, vì nó ám chỉ rằng anh sẽ không ủng hộ tôi,” hay “Anh muốn nói rằng luật về mật mã cũng có tầm
quan trọng tương đương với phong trào giải phóng sao? Sao anh dám nói thế?”
20. Lý lẽ quanh co. Loại ngụy biện này thường luẩn quẩn trong vài giả định và kết luận. Chẳng
hạn như “Những người đồng tính luyến ái
nhất định không thể nắm chính quyền. Do đó, phải tống khứ những viên chức chính
phủ đồng tính luyến ái. Vì thế, những người đồng tính luyến ái sẽ làm mọi cách
để dấu diếm hành tung của họ, và họ có nguy cơ bị tống tiền. Do vậy, những
người đồng tính luyến ái không được giữa chức vụ gì trong chính phủ.” Tức
là trong một lý giải như thế, cả hai giả thuyết và kết luận đều giống nhau.
21. Đảo ngược điều kiện. Loại ngụy biện này thường được biểu hiện qua hình
thức “Nếu A xảy ra thì B sẽ xảy ra, do
đó, nếu B xảy ra thì A sẽ xảy ra.” Ví dụ: “Nếu tiêu chuẩn giáo dục bị hạ thấp, phẩm chất tranh luận sẽ bị tồi đi.
Do đó, nếu chúng ta thấy phẩm chất tranh luận suy đồi trong những năm sắp đến,
thì điều đó cho thấy tiêu chuẩn giáo dục của ta bị xuống cấp.”
22. Lợi dụng rủi ro. Ngụy biện này thường dùng một qui luật chung và áp dụng nó cho một trường
hợp cá biệt. Ví dụ: “Luật giao thông
không cho anh chạy quá 50 km/h. Cho dù cha anh sắp chết anh cũng không được
chạy quá tốc độ đó.”
23. Lợi dụng trường hợp cá biệt. Ngụy biện này thường dùng một trường hợp cá biệt để
đem ra ứng dụng cho một đám đông. Ví dụ: “Chúng
ta cho phép bệnh nhân sắp chết dùng á phiện, chúng ta nên cho phép mọi người
dùng á phiện.”
24. Kết luận lạc đề. Loại ngụy biện này thường xuất hiện khi một kết luận chẳng dính dáng gì
đến lý lẽ mà người biện luận trình bày. Một ví dụ tiêu biểu cho trường hợp ngụy
biện này là: “Độ nhiễm arsenic trong nước
ở Việt Nam chưa cao và còn trong mức độ cho phép. Dữ kiện của Bangladesh cho
thấy tình trạng nhiễm arsenic ở Việt Nam rất trầm trọng.”
25. Ngụy biện rơm. Loại ngụy biện này cố tình xuyên tạc, bóp méo quan điểm hay phát biểu của
người khác, để làm luận điểm tấn công. Đây là một ngụy biện, vì nó không đương
đầu với cái lý lẽ đang bàn. Chẳng hạn như: “Chúng
ta nên ủng hộ chế độ cưỡng bách quân dịch. Người ta không thích tòng quân vì họ
không muốn cuộc sống bị đảo lộn. Nhưng họ cần nhận thức rằng có nhiều điều quan
trọng hơn tiện nghi trong cuộc sống.”
Nhóm 5. Nguyên nhân
giả tạo
26. “Post hoc”. Loại ngụy biện này phát biểu rằng hai sự kiện xảy ra, một trước và một
sau, có quan hệ với nhau như nguyên nhân và hậu quả. Ví dụ: “Liên Xô sụp đổ sau khi nhà nước theo chủ
nghĩa vô thần. Do đó, chúng ta phải từ bỏ chủ nghĩa vô thần để khỏi bị suy sụp.”
27. Ảnh hưởng liên đới. Một sự kiện được cho là có ảnh hưởng đến một sự kiện
khác, nhưng thực chất thì cả hai sự kiện đều có cùng một nguyên nhân. Đây cũng
chính là một trường hợp ngụy biện dưới dạng “post hoc”. Ví dụ: “Chúng ta đang chứng kiến một tình trạng thất
nghiệp rất cao, vì do thiếu nhu cầu của người tiêu thụ.” (Nhưng có thể cả
hai sự kiện có nguyên nhân từ tiền lời quá cao.)
28. Ảnh hưởng không đáng kể. Đây là một loại ngụy biện mang tính phóng đại từ một
ảnh hưởng rất nhỏ. Chẳng hạn như “Hút
thuốc gây ra ô nhiễm môi trường ở Sydney” là một phát biểu đúng, nhưng ảnh
hưởng của thuốc lá đến môi trường rất khiêm tốn khi so với ảnh hưởng của khói
xe và các hãng xưởng.
29. Ảnh hưởng ngược chiều. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và hậu quả bị đảo ngược
chiều để tìm đến một kết luận mang tính ngụy biện. Ví dụ: “Ung thư gây ra thói quen hút thuốc lá”.
30. Nguyên nhân phức tạp. Một sự kiện xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân khác
nhau, nhưng người ngụy biện có thể đơn giản hóa thành một liên hệ đơn giản.
Chẳng hạn như “Tai nạn xe cộ là do đường
xá xấu” có thể đúng, nhưng tai nạn cũng có thể do người lái xe ẩu trong một
điều kiện xấu.
31. Nguyên nhân sai (Non causa pro causa). Loại ngụy biện này xảy ra khi một điều nào đó
được cho là nguyên nhân của một sự kiện, nhưng nó chưa thực sự được chứng minh
là nguyên nhân. Ví dụ: “Tôi uống một viên
aspirin và cầu nguyện thượng đế, và tôi không còn bị nhức đầu. Như vậy thượng
đế đã chữa trị tôi khỏi nhức đầu.”
Nhóm 6. Phi logic
(non sequitur) và nhần lẫn trong tam đoạn luận
32. Phi logic. Ngụy biện phi logic thường xảy ra trong trường hợp một lí lẽ mà kết luận
được rút ra từ những tiêu đề không dính dáng gì với nhau. Chẳng hạn như “Người Ai Cập đã từng làm nhiều khai quật để
xây dựng những kim tự tháp, họ chắc chắn phải rất thạo về cổ sinh vật học.”
33. Loại bỏ tiền đề. Ngụy biện loại này thường xảy ra dưới hình thức “nếu A thì B, không phải
A thì không phải B.” Ví dụ: “Nếu tôi ở
Sydney thì tôi đang ở New South Wales. Tôi hiện không ở Sydney, do đó, tôi
không ở New South Wales”.
34. Nhét chữ vào miệng người khác. Đây là một loại ngụy biện bằng cách dùng kỹ thuật
phỏng vấn. Một trường hợp cổ điển là “Ông
đã ngưng đánh vợ chưa?” Tức là một câu hỏi với một giả định rằng người được
hỏi từng hành hung vợ. Đây là một mẹo mà giới luật sư thường hay dùng trong
thẩm vấn. “Ông dấu tiền ăn cắp đó ở đâu?”
Giới chính khách cũng thích mẹo này, đại khái như “Bao giờ thì nhóm EU này sẽ không còn xâm phạm vào công việc của chúng
ta?”
35. Ngụy biện tứ ngữ. (Một tiêu chuẩn của tam đoạn luận gồm có 3 chữ). Ví dụ như trong câu phát
biểu “Tất cả chó là thú vật, và tất cả
mèo là loài động vật có vú, do đó tất cả chó là loài động vật có vú,” có
bốn chữ: chó, mèo, động vật, và động vật có vú.
36. Đứt đoạn. Hai sự vật riêng biệt được xem là có liên hệ nhau nếu chúng có chung đặc
tính. Người ngụy biện lợi dụng chữ giữa của một phát biểu để đưa đến một kết
luận sai. Chẳng hạn như trong câu “Tất cả
người Nga là nhà cách mạng, và tất cả những người theo chủ nghĩa vô chính phủ
cũng là nhà cách mạng, do đó, tất cả những người theo chủ nghĩa vô chính phủ là
người Nga,” chữ chính giữa là “nhà cách mạng”. Nhưng kết luận này sai, vì
dù những người theo chủ nghĩa vô chính phủ và người Nga là những người cách
mạng, nhưng họ có thể là hai nhóm cách mạng khác nhau.
Nhóm 7. Các nhầm
lẫn khác
37. Dẫn chứng bằng giai thoại. Một trong những ngụy biện phổ biến nhất và đơn giản
nhất là dựa vào những câu chuyện có tính vụn vặt, hay giai thoại. Chẳng hạn như
“Có hàng khối bằng chứng cho thấy thượng
đế hiện hữu và vẫn ban phép mầu hàng ngày. Mới tuần rồi đây, tôi có đọc được
một câu chuyện về một cô gái sắp chết vì ung thư, cả gia đình cô đi cầu nguyện
trong nhà thờ, và chỉ vài ngày sau cô hết bệnh.” Dùng kinh nghiệm cá nhân
để minh họa cho một luận điểm là một điều hoàn toàn hợp lý, nhưng dùng những
giai thoại như thế sẽ chẳng chứng minh gì. Một anh bạn có thể cho rằng anh từng
gặp Elvis ở một siêu thị nào đó, nhưng những người chưa gặp Elvis bao giờ thì
cần nhiều bằng chứng xác thực hơn.
38. Lợi dụng cổ tích. Đây là một loại ngụy biện cho rằng những gì đúng hay tốt chỉ đơn giản vì
chúng là cổ xưa, và những người theo cách ngụy biện này thường nói “hồi nào đến giờ ai cũng vậy.” Chẳng hạn
như “Hàng trăm năm nay, Úc chịu dưới sự
cai trị của Hoàng gia Anh, và là một nước thịnh vượng. Một thể chế tồn tại lâu
dài như thế ắt phải là một thể chế ưu việt.”
39. Dựa vào cái mới (ad novitatem). Ngược lại với loại ngụy biện dựa vào cái cũ, ngụy
biện dựa vào cái mới cho rằng một điều gì đó tốt hơn và đúng hơn đơn giản chỉ
vì nó mới hơn cái khác. “Windows 2000
phải tốt hơn Windows 95, Windows 2000 mới được thiết kế lại năm ngoái.”
40. Lý lẽ của đồng tiền. Loại ngụy biện này thường dựa vào một niềm tin duy
nhất rằng đồng tiền là một tiêu chuẩn của sự đúng đắn. Những người có nhiều
tiến có khả năng đúng hơn những người ít tiền. Chẳng hạn như “Nhu liệu của hãng Microsoft đương nhiên là
tốt hơn; nếu không thì làm sao Bill Gates có thể trở nên tỷ phú như thế”.
41. Dựa vào cái nghèo. Ngược lại với ngụy biện dựa vào sự giàu có, có một loại ngụy biện khác
dựa vào sự nghèo khổ. Chẳng hạn như “Các
vị sư có khả năng hiểu thấu được ý nghĩa của cuộc sống, bởi vì họ từ bỏ mọi xa
hoa của cuộc sống.”
42. Điệp khúc (ad nauseam). Loại ngụy biện này cho rằng một lý lẽ càng được lặp đi
lặp lại nhiều chừng nào thì nó sẽ được người ta chấp nhận là đúng. Do đó, người
ngụy biện thường chỉ lặp đi lặp lại những phát biểu, bất kể đúng sai ra sao,
cho đến khi người đối thoại mệt mỏi không còn muốn nghe nữa.
43. Lạm dụng thiên nhiên. Đây là một ngụy biện rất thông thường trong giới
chính trị gia, mà trong đó họ tìm cái tương đồng giữa một kết luận nào đó và
một khía cạnh của thế giới tự nhiên, rồi từ đó phát biểu rằng kết luận đó là
không thể tránh khỏi. Chẳng hạn như “Đặc
điểm của thế giới tự nhiên là cạnh tranh; động vật đấu tranh chống nhau để làm
chủ tài nguyên thiên nhiên. Chủ nghĩa tư bản, một hình thức cạnh tranh để làm
chủ tư liệu, chỉ đơn giản là một phần của con người sống trong thế giới tự
nhiên. Đó cũng là cách mà thế giới tự nhiên vận hành.”
Một hình thức khác của lạm
dụng thiên nhiên là lý luận cho rằng bởi vì con người là sản phẩm của thế giới
tự nhiên, chúng ta phải bắt chước hành động theo những gì chúng ta thấy trong
thế giới tự nhiên, và làm khác đi là “phi tự nhiên”. Ví dụ: “Đồng tính luyến ái dĩ nhiên là không tự
nhiên.”
44. Ngụy biện “anh cũng vậy”. Đây là một trong những ngụy biện rất phổ biến. Nó dựa
vào lý lẽ rằng một hành động có thể chấp nhận được bởi vì người đối nghịch đã
làm. Chẳng hạn như “Anh là một người lừa
dối.” “Rồi sao? Anh cũng là một tay
lừa dối vậy.”
45. Lạm dụng thống kê. Thống kê thường được giới ngụy biện sử dụng tối đa, vì theo họ thống kê
có thể dùng để “chứng minh” bất cứ điều gì. Người ta có thể vặn vẹo hai con số
1 và 3 điểm để sản xuất những phát biểu như “khác nhau 2 điểm”, “cao gấp 3
lần”, hay “tăng 200%”; người ta có thể dựa vào ý kiến đồng tình của 4 người
trong 5 người để cho là “80% người được thăm dò”, hay thậm chí “đa số cộng
đồng” đồng ý với một luận điểm nào đó. Tức là những khái quát hoá một cách vội
vã, hay dựa vào một mẫu số cực kỳ thấp, thấp đến độ nó không có nghĩa lý gì.
Thực ra, thống kê không chứng minh điều gì cả. Thống kê chỉ là một phương tiện
hay thuật toán dùng để loại bỏ những trường hợp khả dĩ hay không khả dĩ. Vì có
quá nhiều ngụy biện thống kê, nên vấn đề này sẽ được bàn tiếp trong một dịp
khác.
Nhận xét
Có thể nói những loại ngụy
biện trên đây có những đặc điểm chung là
(a) phát biểu không dựa vào lý
lẽ logic;
(b) các định đề không vững để
đi đến một kết luận; và
(c) đưa ra giả định không
đúng.
Ngụy biện, do đó, nói cho
cùng, là một sản phẩm của sự lười biếng suy nghĩ. Và hầu như trong chúng ta, ai cũng có ít nhất là một lần lười suy nghĩ.
Do đó, nếu điểm qua những loại ngụy biện trên đây, chúng ta tự cảm nhận rằng
trong quá khứ mình chắc cũng có lần phạm vào lỗi lầm của ngụy biện. Điều này có
thể đúng, và không nên lấy làm ngạc nhiên, vì các nhà thông thái, và ngay cả
giới có huấn luyện về logic học cũng đôi khi, vì cố ý hay vô tình, ngụy biện. Giới chính trị gia và truyền thông là những người cực
kỳ nổi tiếng về ngụy biện.
Nhưng tại sao những ngụy biện
vẫn còn có mặt trên báo chí? Theo tôi, bởi vì chúng vẫn có khách hàng. Vẫn có người, dù ít hay nhiều, tin tưởng vào ngụy
biện, vì nó thuận nhĩ, trơn tru, và nhất là không thách thức. Sờ một hòn đá
trơn tru đem lại cho chúng ta một cảm giác khoan khoái dễ chịu hơn là sờ một
hòn đá lởm chởm, hay ngồi trên một cái ghế ghồ ghề. Người ta thích sự trơn tru,
bởi vì trơn tru là dấu hiệu của sự khoan khoái, dễ chịu, là cái khoảng thời
gian giải lao, không cần sự thách thức.
Có lẽ, ở một khía cạnh nào đó,
điều này cũng không đến nỗi tệ, bởi vì những ngụy biện phản ánh sự thành công
[hay có người nói sự phong phú] của ngôn ngữ trong việc tách rời giữa những gì
thô thiển, gồ ghề với những gì hoàn thiện, mỹ miều. Nhưng sự trơn tru của các
vật thể và ngôn ngữ ngày nay đem lại cho chúng ta một cảm giác giả tạo về thế
giới thực của các vật thể. Những kỳ kẹt xe trên đường xá mới để lộ trái tim
phức tạp của một thành phố. Tương tự, một vấn đề của internet sẽ nhắc nhở chúng
ta về tình trạng hỗn mang và phức tạp của hệ thống thông tin điện tử. Sự hỗn
mang và phức tạp là thực. Trơn tru, tròn trĩnh có thể là giả tạo. Những câu văn
ngụy biện có thể chỉ là những lời phát biểu lém lỉnh thay vì lịch thiệp, hàm
chứa mánh khóe thay vì thân thiện. Có thể nói, ngụy
biện là những lối sáo ngữ liến thoắng nhằm vào mục đích lôi cuốn người
nghe/đọc, thay vì cung cấp cho họ một sự thực.
Bởi vì ngụy biện là những lý
lẽ mà bề ngoài có vẻ logic, nên chúng có khả năng thuyết phục những người không
chịu khó suy nghĩ, nhất là những người còn mang nặng cảm tính. Điều này giải thích tại sao nhiều người tiếp nhận
một cách thụ động quá nhiều những điều quái gở về thế giới chung quanh, kể cả
những niềm tin tôn giáo, những mê tín dị đoan, những triết lý quái đản, những
thông tin sai lạc, v.v.. Cái tác hại của việc tiếp nhận thụ động này là nó làm
cho người ta trở nên nô lệ với cảm tính, và dễ dàng trở thành những tín đồ
cuồng tín của những người “lãnh đạo” chính trị hay tôn giáo.
Để không trở thành những nô
lệ, cần phải suy nghĩ nghiêm túc. Suy nghĩ nghiêm
túc là một quá trình hoạt động tri thức nhằm ý niệm hóa, ứng dụng, phân tích,
tổng hợp, và đánh giá những thông tin được thu thập từ quan sát, kinh nghiệm,
phản ảnh, lý luận, hay liên lạc, như là một niềm tin cho hành động. Cần phải
dựa vào những giá trị tri thức với những đặc điểm như trong sáng, chính xác,
nhất quán, có liên hệ, bằng chứng tốt, lý lẽ hợp lý, có chiều sâu, và công
bằng. Tức là, trước một câu phát biểu hay một đề nghị, cần phải thẩm định lại
kết cấu và nguyên tố của phát biểu hay đề nghị đó. Những kết cấu và nguyên tố
này là: mục đích, vấn đề, giả định, quan niệm, bối cảnh, kết luận, ngụ ý, hậu
quả, phạm vi tham khảo, và quan điểm khác.
Người Việt chúng ta thường rất
tự hào về những đối thoại [mà chúng ta cho là “thông minh”] giữa Trạng Quỳnh và
Chúa Trịnh ngày xưa. Nhưng nói một cách công bằng
và theo tiêu chuẩn của lý luận logic, thì những trao đổi của Trạng Quỳnh hay
tương tự chỉ là những ngụy biện ở trình độ thô sơ nhất. Nhưng có điều đáng buồn là những đối thoại kiểu Trạng
Quỳnh, mà trong đó sự hơn thua nhau từng câu nói, bắt bẽ nhau từng chữ, vặn vẹo
ý nghĩa của từng câu văn, v.v… lại đi vào sử sách, như thể để làm gương cho thế
hệ sau này. Mà làm gương thật. Cho đến ngày nay, có người vẫn còn cho đó là một
biểu tượng của sự thâm thúy, thông minh của dân tộc, là phản ánh sự phong phú
của ngôn ngữ Việt, và đem ra ứng dụng trong tranh luận.
Theo dõi báo chí, chúng ta
thấy những hình thức tấn công cá nhân (thay vì tấn công vào luận điểm), xuyên
tạc ý tưởng, chụp mũ, suy luận theo cảm tính, mỉa mai, đơn giản hóa vấn đề,
v.v… xuất hiện hầu như hàng ngày, có khi hàng giờ. Vì những tần số của những
loại ngụy biện xuất hiện quá nhiều như thế, nó thành một sự rập khuôn. Theo
thời gian, rập khuôn trở thành “truyền thống”. Hậu quả của cái truyền thống này
là những ai ra ngoài cái khuôn sáo của ngụy biện đều có thể bị xem là phi chính
thống, dẫn đến một lối suy nghĩ và phán xét kỳ quặc kiểu “anh/chị không thuộc nhóm của tôi, vậy thì anh/chị thuộc nhóm bên kia,”
“anh chê ‘quốc gia’, vậy anh phải là cộng
sản,” “anh khen Việt Nam, vậy anh là
cộng sản,” “giọng nói anh ‘Bắc kỳ
75’, vậy anh là cộng sản,” hay “Nhà
nước cho anh ra ngoài này trình diễn, chắc anh là cộng sản đi tuyên truyền”…
Anh ở phía này, tôi bên kia.
Nói tóm lại, đó là một lối
phân định theo hai giá trị: xấu và tốt, đen và trắng, hay địch và ta một cách
cứng nhắc. Cách phân định này thể hiện một sự nghèo nàn về trí tuệ, hay lười
biếng suy nghĩ. Chỉ cần đặt vấn đề ngược lại một chút, hay phát triển vấn đề xa
hơn một chút, ai cũng có thể thấy lối phân chia có/không này không thể đem đến
một đáp số cho một vấn đề nào cả.
Trong cái sự thực phức tạp, mờ
mờ ảo ảo của vấn đề, có cái đẹp riêng. Không phải cái đẹp trơn tru, tròn trĩnh,
nhưng là cái đẹp khắt khe của sự thật. Tương tự, một lời phát biểu nghịch lý có
cái đẹp của nó, vì nó có thể đánh thức chúng ta về một thế giới phức tạp, một
thế giới không nằm gọn trong đúng/sai, tốt/xấu, bạn/thù.
Có lẽ đã đến lúc chúng ta nên
vượt qua chính mình bằng cách cho các tế bào trí tuệ có cơ hội làm việc.
GS NGUYỄN VĂN TUẤN
--
Hãy cứ cho thêm,
hãy còn cho mãi
Mai ta đi nào kịp vẫy tay chào.
Mai ta đi nào kịp vẫy tay chào.
(Phạm Nhuận)