„Việc mong đợi đảng CS tự thay đổi chẳng những
làm nhụt ý chí đấu tranh, chứng tỏ sự yếu kém của mình mà còn ảnh hưởng tiêu
cực đến cả các phong trào dân chủ đang cố gắng vươn lên.“
Từ tranh chấp Trọng-Dũng,
tìm hiểu sáu lý do giúp chế độ CS tồn tại
Trần Trung Đạo
Nguyễn Tấn Dũng với Nguyễn Phú Trọng: Photo: HOANG DINH
NAM/AFP/Getty
Hôm đó là ngày 11 tháng 9,
1987 và Mikhail Gorbachev đang nghỉ ngơi trong một biệt thự ở Hắc Hải. Một phụ
tá trình lên ông lá thư từ chức Ủy viên Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Liên Xô của
Boris Yelstin. Gorbachev đọc lá thư mà không tin đó là sự thật. Trong lịch sử
đảng CSLX đây là lần đầu một lãnh tụ CS cấp trung ương từ chức. Đấu tranh nội
bộ dù sâu sắc như giữa Leon Trotsky và Stalin mấy chục năm trước cũng không có
chuyện từ chức. Việc tự ý rời nhiệm sở là việc chưa từng có và cũng không được
phép. Leon Trotsky bị tướt đoạt mọi chức vụ, loại trừ ra khỏi đảng năm 1927 và
cuối cùng bị ám sát ở Mexico năm 1940.
Theo lời Gorbachev, ông gọi
về Moscow và ra lịnh cho các phụ tá đến khẩn thiết với Yelstin đừng tiết lộ nội
dung lá thư ra ngoài vì quần chúng và thế giới sẽ biết sự rạn nứt trong nội bộ
đảng CSLX. Hơn một tháng sau đó, trong phiên họp của ban chấp hành trung ương đảng
CSLX, Boris Yelstin chính thức từ chức. Tuy phiên họp được tổ chức trong vòng
bí mật, các tin tức về Boris Yelstin từ chức cũng đã nhanh chóng lọt ra ngoài.
Mảnh vỡ đó đã dẫn tới tự tan vỡ từ trung tâm đảng CSLX, một tổ chức chính trị
bí mật, sắt máu và chặt chẽ nhất từ trước đến nay. Đặc điểm bí mật và sắt máu đã giúp cho cơ chế CS tồn tại với một kỷ
lục 74 năm tại Liên Xô so với Đảng Cách Mạng Thể
Chế Mexico (Mexico’s Institutional Revolutionary Party) cầm quyền được 71 năm.
Nhưng đó không phải là lý do duy nhất.
Nhân dịp có sự đụng độ cá
nhân giữa Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng trong đại hội đảng CS lần thứ 12
này, người viết xin tổng kết các lý do chính để những ai, nhất là những người
nghĩ mình đang đấu tranh cho dân chủ Việt Nam, hy vọng sự rạn nứt giữa Nguyễn
Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng sẽ dẫn đến những thay đổi căn bản và tốt đẹp cho
đất nước thì cũng đừng mơ mộng và kỳ vọng nữa.
Việc mong đợi đảng CS tự thay
đổi chẳng những làm nhụt ý chí đấu tranh, chứng tỏ sự yếu kém của mình mà còn
ảnh hưởng tiêu cực đến cả các phong trào dân chủ đang cố gắng vươn lên. Những
thư kiến nghị, thỉnh cầu lần nữa “đem đàn gảy tai trâu” như bao nhiêu lần
trước. Với Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Tấn Dũng,
quyền lợi của đảng bao giờ cũng được đặt lên trên quyền lợi cá nhân. Rồi mai
đây, sóng gió trong nội bộ đảng sẽ qua, Nguyễn Tấn Dũng mất quyền nhưng không
mất lợi, chỉ có đất nước là bị xâm thực dần cho đến khi mất hẳn vào tay Trung
Cộng.
Dưới đây là sáu lý do (*):
1. Đảng CS kiểm soát toàn bộ
cơ cấu kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội bằng tuyên truyền và khủng bố.
Lý do này rất hiển nhiên và
dễ hiểu. Tuyên truyền kết hợp với khủng bố tạo thành cột xương sống của chế
độ độc tài CS. Ngoài nhà tù và sân bắn, đảng CS áp dụng
một chính sách tuyên truyền tàn độc nhất trong lịch sử loài người. Tinh vi đến
mức người bị tẩy não hoàn toàn không biết mình bị tẩy não mà cho CS là một lý
tưởng của đời người và hiến thân cho đến chết.
Sau cách mạng CS Nga, 1917,
công việc đầu tiên Lenin phải làm ngay là thành lập cơ quan tuyên truyền
Agitprop và trong giai đoạn đầu còn do chính Lenin đích thân lãnh đạo. Tại
Trung Cộng cũng vậy, trong đại hội đảng CS Trung Quốc lần đầu vào năm 1921 chỉ
bầu ra vỏn vẹn ba ủy viên trung ương nhưng một trong ba ủy viên đó chịu trách
nhiệm tuyên truyền.
Cơ quan tuyên truyền tẩy não
trung ương đảng kiểm soát từng chi tiết các sinh hoạt tri thức, thông tin,
truyền thanh, truyền hình, báo chí. Hệ thống kiểm duyệt trong chế độ Cộng Sản
không chỉ ở trung ương mà theo nhiều tầng lớp. Ngay cả khi các tác giả viết bài
cũng đã thực thi tự kiểm duyệt vì họ biết những gì nên viết và những gì không
được viết trước khi nạp bản thảo cho cơ quan kiểm duyệt nhà nước. Các tác phẩm
phim ảnh được duyệt nhiều lần để bảo đảm khi đến người dân không có một tình
tiết nào đi ngược với đường lối của đảng.
Để tồn tại sau những đãi lọc
của văn minh nhân loại, phương pháp và mục đích tuyên truyền CS cũng thay đổi
theo thời gian. Chẳng hạn, trước năm 1990 nền giáo dục CS đặt nặng lên học
thuyết Marx-Lenin nhưng sau này thêm vào một cái đuôi tư tưởng dân tộc như tư
tưởng Mao tại Trung Cộng và tư tưởng Hồ Chí Minh tại Việt Nam.
2. Đấu tranh nội bộ nhưng có
cùng một mục tiêu và bị chi phối bởi một kỷ luật đảng.
Lịch sử phong trào CS thế
giới từ Liên Xô đến Trung Cộng hay như vừa diễn ra tại Việt Nam cho thấy dù có
đấu tranh nội bộ, các lãnh tụ CS luôn đặt mục tiêu chung của đảng lên hàng đầu.
Các lãnh đạo đảng chọn hy sinh quyền lợi cá nhân vì sự sống còn của đảng. Tất
cả đảng viên CS bị chi phối bởi một cương lĩnh duy nhất là cương lĩnh đảng CS.
Để duy trì tính thống nhất,
đảng CS áp dụng một kỷ luật sắt trong nội bộ đảng. Ngoại trừ trường hợp Khrushchev tố Stalin trong đại hội
lần thứ 20 của đảng CS Liên Xô, ít khi nào một lãnh đạo Cộng Sản đứng lên thẳng
thắn vạch trần tội lỗi của lớp lãnh đạo trước. Làm như thế là phản đảng vì đã
tạo chỗ hở cho kẻ thù tấn công vào đảng. Không ai tiên đoán được số phận của
Boris Yelstin ra sao nếu ông ta từ chức, đừng nói chi dưới thời Stalin mà chỉ
10 năm trước đó.
Đời tư các lãnh tụ CS là tài
sản bí mật của đảng. Các lãnh tụ độc tài dù tự
sát như Adolf Hitler, bị giết như Benito Mussolini hay bị treo cổ như Hideki
Tojo, tội ác của họ cũng đều được phanh phui sau Thế chiến Thứ hai. Các thế hệ
lãnh tụ CS thì khác. Tội ác của các lãnh tụ CS được che giấu kỹ. Vai trò của
Kim Nhật Thành trong chiến tranh chống Nhật, Hồ Chí Minh trong chiến tranh
chống Pháp, Fidel Castro trong chiến tranh chống độc tài Batista, Stalin trong
chiến tranh chống Đức, Mao Trạch Đông trong chiến tranh chống Nhật được đề cao
đến độ nếu không có họ có thể toàn dân tộc đã bị xóa tên khỏi lịch sử loài
người. Hình ảnh Mao Trạch Đông chính thức tuyên bố thành lập nước Cộng Hòa Nhân
Dân Trung Hoa, hình ảnh Hồ Chí Minh đọc “tuyên ngôn độc lập” đã được đánh bóng
sáng đến mức mọi tội tác tày trời khác của họ đã trở thành trộm vặt.
3. Bảo vệ tính kế tục cai trị
của đảng.
Chế độ CS là một chế độ phong
kiến đỏ và do đó, đặc điểm kế tục cai trị CS vô cùng quan trọng.
Trường hợp Đặng Tiểu Bình đối
với Mao Trạch Đông là một ví dụ điển hình. Đặng Tiểu Bình là một trong những
người chịu đựng sự hành hạ và mất mát lớn lao về nhân mạng trong thời Cách mạng
văn hóa. Bản thân Đặng Tiểu Bình bị chính Mao thanh trừng nhiều lần và con trai
của họ Đặng trọng thương khi bị ném từ cửa sổ xuống đường. Chuyện đời tư của
Mao, từ bản chất độc tài, nghi kỵ cho đến cá tính trăng hoa dâm dật, Đặng Tiểu
Bình biết hơn ai hết, nhưng khi lên nắm quyền hành, ông ta vẫn tiếp tục sơn son
thiếp vàng lên một hình tượng mà cá nhân ông vô cùng căm hận. Trên đồng nhân
dân tệ từ đơn vị một đồng cho đến một trăm đồng vẫn in khuôn mặt mỉm cười của
một trong những kẻ từng điều khiển bộ máy giết người tập thể khủng khiếp nhất
trong lịch sử nhân loại.
Là một trong số rất ít lãnh
đạo Cộng Sản lão thành còn sót lại từ thời Vạn lý trường chinh và cũng quá
thuộc sử Tàu, Đặng Tiểu Bình biết, giống như các triều đại phong kiến Trung
Hoa, đặc tính kế thừa của một quyền lực trung tâm là một yếu tố sinh tử của chế
độ Cộng Sản. Họ Đặng biết rằng điểm trung tâm vỡ toàn bộ hệ thống cai trị sẽ vỡ
theo. Đặc điểm kế tục còn được thể hiện qua tầng lớp “Thái tử đảng”, con cháu
của các cựu lãnh đạo đảng, tiếp tục vai trò lãnh đạo như trường hợp Ôn Gia Bảo,
Hồ Cẩm Đào, Tập Cận Bình tại Trung Cộng. Tại Việt Nam, thành phần “Thái tử
đảng” cũng đang “nối bước cha anh”.
4. Sử dụng “thành phần xăng
nhớt” cho bộ máy toàn trị.
Thành phần trung thành và
cuồng tín do chính sách tẩy não nặn ra đa số là những kẻ dốt nát, ngu ngốc,
phát biểu những câu chỉ làm trò cười cho thiên hạ và không thể điều hành bộ máy
nhà nước. Bộ máy độc tài toàn trị CS chạy được nhờ vào một thành phần khác có
trình độ kỹ thuật chuyên môn cao thuộc các lãnh vực của đời sống mà người viết
tạm gọi là “thành phần xăng nhớt”.
Khá đông trong “thành phần
xăng nhớt” này là những người có học, có kiến thức về kinh tế chính trị, khoa
học kỹ thuật, văn hóa xã hội, biết được lẽ đúng sai nhưng thỏa hiệp với tập
đoàn cai trị để đổi lấy một cuộc sống an nhàn, vinh hoa cho bản thân và gia
đình. Thành phần này chấp nhận là xăng nhớt cho bộ máy độc tài tiếp tục cày xéo
lên đất nước. Nhiều trong số họ được đào tạo tại các
trường đại học danh tiếng thế giới, học và hiểu tường tận các nguyên tắc để xây
dựng một xã hội dân chủ nhưng khi về nước họ đã bán thân cho đảng CS.
Một
khi lớp xăng nhớt này trở thành cặn bã lại có một lớp khác lên thay. Như người
viết đã phân tích trong bài “Bàn vê tẩy não”, Albert D. Biderman trong bản tin của Viện Hàn Lâm Y Khoa New York
gọi thành phần này là những
người “cho thấy việc chống lại chỉ là hành động vô ích”, từ đó “phát triển một thói
quen tuân phục”, và cuối cùng “đầu hàng có điều kiện” trước đảng CS.
5. Các lãnh tụ CS chỉ giết
nhân dân nước họ nên thế giới ít quan tâm.
Không giống chế độ độc tài
Đức Quốc Xã tàn sát dân Do Thái, lãnh đạo Cộng Sản các nước thường giết chính
đồng bào cùng máu mủ, cùng tổ tiên, cùng đất nước với họ.
Ngay từ sau 1975, dư luận thế
giới đã biết đến tội ác của chế độ Pol Pot. Năm 1976, tạp chí Time còn đăng cả
bức hình một tội nhân đang bị đánh vào đầu bằng cuốc, tuy nhiên, ngoài Việt Nam
tấn công chế độ bằng một lý do riêng vào tháng Giêng, 1978, không một quốc gia
nào có hành động cụ thể để ngăn chặn tội ác của Pol Pot.
Theo Black Book of Communism
do Harvard do Harvard University Press xuất bản, gần một trăm triệu người bi giết
dưới chế độ CS nhưng không phải do nước ngoài xâm lược mà do chính các lãnh tụ
CS giết nhân dân nước họ như trường hợp Mao giết 65 triệu, Lenin và Stalin giết
20 triệu, Pol Pot giết 2 triệu, Hồ Chí Minh giết 1 triệu (không tính nhiều
triệu người Việt vô tội của cả hai miền trong chiến tranh xích hóa Việt Nam từ
năm 1954 đến năm 1975).
6. Lãnh đạo Cộng Sản thường
tận dụng ảnh hưởng của kẻ thù đã chết.
Những lãnh tụ Cộng Sản thường
tận diệt kẻ thù còn sống nhưng ca tụng kẻ thù đã chết. Stalin ca tụng Lenin, Fidel Castro ca tụng Ernesto
“Che” Guevara, Đặng Tiểu Bình ca tụng Mao Trạch Đông.
Lấy trường hợp Che làm ví dụ.
Nếu Ernesto “Che” Guevara không làm cách mạng phiêu lưu Nam Mỹ mà tiếp tục ở
lại Cu Ba, thất khó tưởng tượng ông ta có thể sống sót dưới bàn tay của Fidel
Castro. Một rừng không có hai cọp, một nước không có hai vua, đừng nói chi là
quan hệ giữa Che và Fidel Castro rạn nứt trước khi Che tạm biệt vợ con lần cuối
và lên đường đi Bolivia cuối năm 1966. Che chủ trương kỹ nghệ hóa đất nước, Fidel
Castro chủ trương củng cố quyền lực trung ương.
Sự khác biệt của Che và Fidel
Castro khá giống trường hợp của Lưu Thiếu Kỳ và Mao Trạch Đông. Nhưng hôm nay,
nếu ai đến Havana, sẽ gặp hình ảnh Che trên khắp ngả đường. Xác chết không nghe
được lời ca tụng, không nếm được mỹ vị cao lương, không sống trong các biệt thự
có kẻ hầu người hạ, chỉ có đám độc tài đang thống trị đất nước mới thật sự là
những kẻ hưởng thụ quyền lực.
Chủ nghĩa Cộng Sản đã tàn rụi
ở châu Âu nhưng trong năm nước còn sót lại sự khổ đau, chịu đựng vẫn còn đến
hôm nay và không biết đến bao giờ mới hết. Chiến tranh Lạnh đã tàn.
Các nước tư bản tự do vì lý do kinh tế đã không còn giương cao ngọn cờ dân chủ
như trước nữa. Họ mặc nhiên chấp nhận chế độ Cộng Sản như là một thực tế của
mỗi quốc gia hơn là một phong trào quốc tế. Nhân
dân Bắc Hàn, Cu Ba, Việt Nam, Lào, Trung Hoa vì thế sẽ tiếp tục là những dân
tộc chịu đựng trong cô đơn.
Trần
Trung Đạo