"Với 3260 cây số bờ biển, biển
Việt Nam đã đem lại nguồn mưu sinh cho hàng triệu người sống dọc bờ biển và
nuôi sống bao nhiêu thế hệ từ ngày lập quốc. "
Nguyễn Huy Vũ
Phát ngôn của ông Chu
Xuân Phàm, giám đốc đối ngoại của Formosa Hà Tĩnh rằng chúng ta phải chọn một
trong hai, giữa tôm cá hay là nhà máy thép, là một sự thành thật, dù đó là một
sự thành thật đau đớn.
Một nhà máy của một
ngành công nghiệp ô nhiễm như nhà máy thép chắc chắn là có tác động xấu đến môi
trường, và sự suy giảm hay chết chóc của tôm cá do đó là một hệ quả tất yếu. Đó
là một sự đánh đổi. Tuy vậy, có hai câu hỏi là sự đánh đổi đó có đáng hay
không? Và ai là người được lợi?
Cho đến nay, chưa có một
kết luận chính thức nào Formosa là thủ phạm trực tiếp gây độc môi trường. Tuy
vậy, những bằng chứng mà người dân và báo chí thu thập được đang chĩa ngón tay
về phía Formosa như một thủ phạm. Đó là hiện tượng nước biển trở thành độc chỉ
diễn ra từ Vũng Áng, Hà Tĩnh và lan xuống phía Nam đến Huế. Sự lan tỏa đó góp
phần nhờ ở dòng hải lưu biển đang ở mùa xuôi Nam. Đó là việc xả thải của
Formosa hàng ngàn mét khối nước thải ra biển hàng ngày mà không ai biết đó là
những chất thải gì, là việc dùng 300 tấn hóa chất độc địa để cọ rửa ống xử lý
nước thải và thả thẳng ra biển. Mà sự độc địa của nguồn nước biển không những
khiến cá chết mà chim lỡ ăn cá cũng chết và người ăn nhầm cá đều đã bị ngộ độc
và phải cấp cứu. Nạn nhân mới nhất là một thợ lặn cho Formosa trong dự án xây
bờ kè đã đột tử và bị nghi là nhiễm độc chất trong khi lặn.
Những nghi ngờ không
phải là không có căn cứ khi Formosa đã từng có thành tích phá hủy môi trường
và được tổ chức bảo vệ môi trường Ethecon của Đức tặng cho giải thưởng «Hành
tinh Đen» (Black Planet Award) vì những hành động làm ô nhiễm và đầu độc môi
trường ở tất cả những nơi công ty có hoạt động sản xuất từ Đài Loan, Mỹ, đến Campuchia.
Hậu quả của độc chất
trong nước biển không chỉ dừng lại ở chỉ bốn tỉnh từ Hà Tĩnh đến Huế mà sẽ có
tác động rất lớn và lâu dài. Với tốc độ của dòng hải lưu khoảng 0,3- 0,5
mét/giây, sẽ mất khoảng 10 ngày để dòng hải lưu biển mang độc chất đi một đoạn
đường dài 250 cây số -- đó cũng là khoảng cách theo đường chim bay từ Vũng Áng
Hà Tĩnh đến Huế. Với khoảng cách 620 cây số từ Huế đến Nha Trang, nếu sự độc
hóa được tiếp tục thì với tốc độ chảy của dòng hải lưu, chỉ trong vòng hơn ba
tuần là vùng biển Khánh Hòa và Nam Trung Bộ bắt đầu nhiễm độc. Và nếu như sự
độc hóa nước biển được tiếp tục thì vào cuối năm nay, bắt đầu từ tháng 8, khi
dòng hải lưu đổi hướng ngược về phía Bắc, chúng ta sẽ chứng kiến sự độc hóa
nước biển lan tỏa ra các vùng nước ở Vịnh Bắc Bộ. Cá sẽ chết ở Cửa Lò – Nghệ
An, Sầm Sơn – Thanh Hóa, Hải Phòng, Quảng Ninh. Và đó là lúc biển Việt Nam
chết, từ Bắc vào Nam.
Nhưng tác hại sẽ không
dừng ở biển. Độc chất, cho dù ở một mức độ nhỏ, có thể không đủ sức giết chết
cá hay người, vẫn sẽ hiện diện rất lâu trong môi trường. Độc
chất lan tỏa ở biển, ngấm vào các mạch nước ngầm, và vào các sông hồ.
Khi mà những mạch nước ngọt ngầm trong đất đều đã bị độc hóa thì nước Việt Nam
không còn gì để sống. Chúng ta không ăn cá thì có thể ăn thịt, nhưng không ai
có thể nhịn uống nước ngọt. Và khi nguồn độc hóa vẫn tiếp tục làm độc biển và
môi trường thì sẽ đến một ngày rất gần, chỉ vài năm thôi, chúng ta sẽ chứng
kiến dân tộc Việt Nam lụi tàn.
Sẽ có nhiều người cho
rằng đây là một điều phóng đại. Nhưng chúng ta hãy nhìn kỹ hơn tác động của độc
chấn dioxin để lại di chứng cho các thế hệ như là một ví dụ. Cho đến nay chúng
ta chưa biết rõ hết tính chất của độc chất làm độc biển, nhưng những gì chúng
ta chứng kiến cho thấy một sự tàn phá mạnh mẽ và hiểm nguy. Có lẽ sẽ phải mất
hàng năm, hàng chục năm để nhận diện hết tác động của độc chất trong môi
trường. Đó sẽ là bệnh tật nhiều hơn và tuổi thọ giảm xuống.
Câu chuyện ô nhiễm ở
vùng vịnh Minamata của Nhật Bản là một ví dụ khác. Công ty Chisso, một công ty sản
xuất hóa chất hàng đầu của Nhật Bản, đã thải hóa chất methyl thủy ngân (một
loại thủy ngân hữu cơ) xuống vịnh Minamata kể từ năm 1932 đến năm 1968. Thủy
ngân làm độc hóa tất cả các loại hải sản trong vùng vịnh và khi ăn hải sản cơ
thể người, một cách trực tiếp, hấp thụ thủy ngân. Hậu quả của nó là bệnh tật ở
người trưởng thành từ đau đầu, mệt mỏi, mất khả năng vị giác, khữu giác, hay
quên…, và sinh ra những đứa bé bị tàn tật. Sự ô nhiễm thủy ngân sau đó buộc
chính quyền phải nạo vét lòng vịnh trong suốt 14 năm và tiêu tốn một kinh phí
tới 48,5 tỉ yên.
Một nguy cơ trước mắt
khác đó là sự mất kế sinh nhai của hàng vạn đồng bào ven biển miền Trung, những
người hành nghề đánh bắt, nuôi trồng thủy sản, cũng như những đồng bào khác
hành nghề du lịch. Những người mà hàng ngàn đời nay sống nhờ biển, giờ đây phải
chọn một nghề khác. Và ai sẽ giúp họ hay họ sẽ phải tự lực mưu sinh?
Những người Việt Nam lớn
lên hôm nay đều được dạy rằng nước Việt Nam có «rừng vàng, biển bạc». Đó không
hẳn là một câu nói phóng đại. Với 3260 cây số bờ biển, biển Việt Nam đã đem lại
nguồn mưu sinh cho hàng triệu người sống dọc bờ biển và nuôi sống bao nhiêu thế
hệ từ ngày lập quốc. Đó là nguồn «bạc» vô giá của đất nước.
Giờ đây, khi biển và
nước bị đầu độc, với những người Việt Nam dù không quan tâm đến đất nước cũng
phải có một lựa chọn: hoặc là chúng ta im lặng và nhìn đất nước lụi tàn, hoặc
là kêu gọi một sự chấm dứt nguồn độc hóa môi trường và đưa ra pháp luật những
người đã tiếp tay cho việc độc hóa diễn ra. Thời gian có lẽ không còn nhiều cho
một suy nghĩ, vì khi sự độc hóa đã ngấm vào các mạch nước ngọt ngầm thì những
vùng đất sẽ trở thành những vùng đất chết.
Minneapolis, 25.4.2016