„Những cái chết không tên tuổi, không tiếng vang của
các ngư dân đã để lại trong lòng biển Đông những con sóng, những làn sóng yêu
nước và quyết tâm giữ lấy biển đảo quê hương…
Ngược lại, những cái chết của đứa con chế độ, tuy kèn
trống rình rang, lời bi ai tràn ngập trên các mặt báo và có vẻ người ta còn có
khuynh hướng biến những cái chết ấy thành một bản anh hùng ca của thời đại.
Nhưng rất tiếc, những cái chết ấy lại gieo một nỗi tuyệt vọng cho dân
tộc, cho nhân dân hơn bao giờ hết.“
Đứa con của biển và đứa con
của chế độ
VietTuSaiGon
Trong
vòng chưa đầy ba năm, có gần 4,500 tàu cá của ngư dân Việt Nam bị bắn phá, đâm
chìm và bắt bớ trên biển Đông. Cũng trong vòng chưa đầy ba năm, có hơn 2000 ngư
dân bị bắt bớ, đánh đập và bắn giết. Đây là một con số
quá khủng khiếp cho một làng nghề! Và cái chết, sự mất mát của những người chịu
nắng, chịu gió, chịu mọi khổ đau của chính trị nhược tiểu để bám biển, để thực
thi chủ quyền lãnh hải chỉ có Mẹ Biển chứng kiến, ôm lấy thân thể họ cùng tiếng
ai điếu của trùng khơi. Họ là những người con của
biển cả, của danh dự trong âm thầm và anh hùng trong bóng tối. Họ
là đứa con của biển Việt Nam.
Điều
này khác xa với những anh hùng của chế độ, đương nhiên, cái chết và sự mất mát
của những phi công đã tập dượt, tìm kiếm cứu nạn và cuối cùng mất tích trên biển
Đông là một sự mất mát lớn của chế độ, cũng là sự mất mát của dân tộc. Bởi suy
cho cùng, dân tộc, nhân dân đã cưu mang, che chở và nuôi sống chế độ. Từ chiếc
áo cho đến chén cơm, chiếc máy bay, xăng để bay và mọi thứ trang bị cho người
phi công đều do nhân dân mà có. Những phi công đã mất tích và tử nạn trên biển
Đông cũng là những đứa con của nhân dân, con của biển cả!
Nhưng,
sự khác nhau rất rõ rệt giữa những ngư dân và các phi công nằm ở chỗ, ngư dân
vừa đóng vai trò nhân dân để nuôi chế độ, vừa đóng vai trò người lính giữ vững
tiền tiêu và bảo vệ chủ quyền lãnh hải lại vừa đóng vai trò đứa con của biển
khơi khi cái chết ghé đến, sự im lặng, không tên tuổi mang cái chết của họ đi
như bọt sóng trong một ngày gió lớn. Cái chết đầy bi hùng của người vạn chài
chìm trong im lặng và hình như quốc gia đã không hay biết để đưa tang cho họ.
Ngược
lại, cái chết của những đứa con chế độ thì khác, cái chết của họ vô hình trung
làm khuấy động bầu không khí vốn đóng băng suốt nhiều năm nay trong lòng chế
độ. Sự đóng băng của tính tham lam, ích kỷ và vô cảm. Sự đóng băng của những đố
kỵ, kèn cựa địa vị, thủ đoạn hất nhau tranh quyền lực đã được hâm nóng bởi một
vở kịch mà ở đó, cả báo chí nhà nước lẫn giới quan chức cấp cao trong quân đội,
không ai nói ai, tất cả tự biến mình thành một kịch sĩ của nước mắt và bi ai.
Cái
chết của những đứa con chế độ được bi kịch hóa đến đỉnh điểm, ở đó, người ta
khóc mếu máo… Từ tướng lĩnh cho đến trí thức nhà nước, quan chức và những người
lính… Tất cả họ chìm trong một trận bi ai của một kịch bản soạn sẵn, những ai
chứng kiến đều phải rơi nước mắt. Có thể nước mắt của nhiều binh sĩ, sĩ quan
quân đội Cộng sản là nước mắt thật chảy ra từ đáy lòng. Bởi hơn ai hết, họ thấu
hiểu nỗi đau của đồng nghiệp, đồng chí và họ cũng thấu hiểu nỗi khốn khó của
một người lính phải sống, học tập và chiến đấu trong một thứ cơ chế mà ở đó
hiện hữu tất cả sự gian trá và đau khổ dành cho họ. Thậm chí, có thể họ hiểu cả
nguyên nhân của cái chết, một nguyên nhân không phải bởi sự sơ xuất của người
lính hay viên đạn, hòn tên của kẻ thù mà chính ở sự mất nhuệ khí, sự bạc nhược
của chế độ mà họ đang phục vụ.
Và,
có một vấn đề then chốt để thấy rằng cái chết của những người con biển cả khác
xa cái chết của những người con chế độ. Bởi cái chết của những người con biển
cả âm thầm và lặng lẽ, thậm chí thiếu cả những tiếng kèn trống ai điếu. Nhưng
bên trong cái chết không tên tuổi ấy là sức mạnh của của một dân tộc là niềm
tin vào lẽ phải và sự quyết liệt của con dân Việt Nam trong ý chí bảo vệ biển
đảo, bảo vệ lãnh hải.
Những cái chết không tên
tuổi, không tiếng vang của các ngư dân đã để lại trong lòng biển Đông những con
sóng, những làn sóng yêu nước và quyết tâm giữ lấy biển đảo quê hương.
Không ai nói ai, tự trong lòng mỗi người nhận ra sự tàn khốc của kẻ thù và chuẩn
bị cho mình một tư thế để chiến đấu với quân xâm lược. Những cái chết tưởng
chừng nhỏ nhoi ấy lại thắp lên ngọn lửa yêu nước và niềm hy vọng chống quân
bành trướng, xua kẻ thù ra khỏi lãnh địa, lãnh hải quốc gia mạnh hơn bao giờ
hết.
Ngược
lại, những
cái chết của đứa con chế độ, tuy kèn trống rình rang, lời bi ai tràn ngập trên
các mặt báo và có vẻ người ta còn có khuynh hướng biến những cái
chết ấy thành một bản anh hùng ca của thời đại. Nhưng rất tiếc, những cái chết ấy lại
gieo một nỗi tuyệt vọng cho dân tộc, cho nhân dân hơn bao giờ hết.
Bởi
khác xa với những ngư dân bám biển tay không tất sắt, không viên đạn phải đối
đầu với sóng gió, tàu sắt và súng đạn của Trung Quốc, những người con chế độ
được trang bị đầy đủ, từ chiến đấu cơ hiện đại cho đến cơ số đạn dược và các
loại công cụ hỗ trợ tối tân nhất. Bên cạnh đó, họ là những con người mà mỗi kỹ
năng họ có được có thể đánh đổi bằng tài sản của một gia đình ngư dân. Họ là
những người mà nhân dân tin rằng một khi họ xuất kích thì câu chuyện an ninh và
chủ quyền quốc gia được đảm bảo bất khả xâm phạm.
Thế
nhưng (xin lỗi anh Khải và các sĩ quan, binh sĩ trên CASA 212!), cái chết quá ư đơn giản
và có chút gì đó chưa sạch nước cản trên đường bay của các anh đã làm sụp đổ
hoàn toàn niềm hy vọng của nhân dân vào chủ quyền quốc gia. Cái chết của các
anh chỉ cho thấy sự yếu ớt và mất khả năng đề kháng của quân đội Việt Nam.
Báo
chí trong nước từng ca ngợi đội bay của không quân Việt Nam là biệt đội ưu tú
nhất, sẵn sàng chiến đấu với mọi kẻ thù và là biệt đội thần thánh. Thế nhưng
cái gọi là biệt đội thần thánh của các anh lại là mới bay tập dượt đã lâm nạn
và những người đi tìm kiếm cứu nạn bằng phương tiện hiện đại như CASA 212 mà
người lái là một con chim đầu đàn trong đội bay, có kinh nghiệm lão luyện ,
trong điều kiện thời tiết bình thường cũng không thoát khỏi tử thần, cùng tám
đồng đội oan uổng.
Thử
nghĩ, suốt nhiều năm nay, dù muốn hay không thì nhân dân vẫn kỳ vọng vào quân
đội, bởi chức năng lớn nhất của quân đội là bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải quốc gia.
Nhân dân đã góp từng đồng thuế để nuôi quân, góp từng đứa con để tạo nên quân
đội. Thay vào đó, quân đội lại cho nhân dân nỗi tuyệt vọng khôn tả! Và lẽ ra,
trong tình thế hiện tại, cái chết của những phi công tử nạn trên đường tập dượt
cũng như tìm kiếm cứu nạn phải được biến thành lời thề máu của quân đội, thành
quyết tâm chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để bảo vệ những gì còn lại và lấy lại
những gì đã mất của quốc gia, dân tộc. Thì đằng này, cái chết của các anh được
biến thành vở kịch mếu máo, khóc sướt mướt và đánh động bi tâm, đánh động
lòng thương xót của nhân dân.
Đúng,
nhân dân sẽ thương xót những người đã ngã xuống. Nhưng chắc chắn một điều, nhân
dân thương xót các anh một thì nhân dân thương xót cho vận mệnh đất nước đến
mười. Nhân dân sẽ thương xót cho những người thân các anh bị mất con, mất
chồng, mất cha. Nhưng nhân dân còn thương xót gấp triệu lần nữa vì dân tộc đã
mất đi nhuệ khí, nhân dân đã mất đi chỗ dựa là sức mạnh quân đội và niềm tin
chiến thắng quân ngoại xâm hoàn toàn mất đi.
Trong
lúc này, ông Nguyễn Chí Vịnh, một chỉ huy cấp cao của quân đội Cộng sản Việt
Nam đã im lặng, từ chối sự giúp đỡ của Mỹ để tìm kiếm cứu nạn những nạn nhân
trên chiếc CASA 212, trong khi đó ông ta lại tiếp tục khẳng định mối quan hệ
răng môi với Trung Quốc và kêu gọi Trung Quốc mang bốn tàu hải quân, hai tàu
tuần cảnh và hai tàu cứu hộ, cứu nạn cùng hai máy bay tiến thẳng vào biển Việt
Nam.
Và
đáng sợ nhất là ông Vịnh đã bắn tiếng xin Trung Quốc hỗ trợ, cho phép tàu
thuyền Việt Nam tìm kiếm, cứu hộ người Việt Nam ngay trên biển Việt Nam! Vô
hình trung, cái
chết của những người con chế độ làm lộ rõ gương mặt thật đớn hèn và bạc nhược
của cả quân đội và chế độ Cộng sản.
Và
đám tang của Đại tá Khải cũng song hành với đám tang của dân tộc Việt Nam đưa
tiễn những tháng ngày bi hùng về nơi chín suối. Những gì còn sót lại chỉ là sự
đớn hèn!
Biết đâu, trong buổi hội ngộ nơi suối vàng, linh hồn
anh Khải lại gặp linh hồn của những ngư dân bám biển, và họ sẽ cùng ngồi với
nhau để nhìn lại nước non ngàn dặm héo mòn!