Cái Duyên Nam Bắc
Nguyễn Hữu Huấn
Khi ngồi viết những
giòng chữ này thì vợ cháu đang ngủ say sưa trên giường. Nhìn đôi chân dài thườn
thượt của bà thò ra khỏi chăn, tự nhiên cháu bật cười. Thì ra vợ cháu cũng thuộc
loại…chân dài ra phết, cao xấp xỉ 1,70 mét chứ chẳng phải chơi. Năm ngoái gặp lại
đám bạn cũ cùng binh chủng, trong lúc chụp ảnh chung bỗng có thằng la lớn : „Chúng mày ơi ! đứng bên cạnh bà này chắc ông
phải kiễng chân lên mới xứng!“, làm vợ cháu ngượng chín người.
Bố mẹ cháu sinh
cháu ra tại miền Bắc, học hành và lớn lên cùng với gia đình trong miền Nam, để
rồi trưởng thành tận ngoài miền Trung. Từ những tính chất của ba miền đã hợp lại
tạo nên cháu thành một thứ “hẩu lốn” như canh chua nấu với…rau muống, giá sống
ăn với…bún riêu, nhậu bia với ché mà lại chấm với …xì dầu. Thế nhưng cái
bản chất Bắc kỳ vẫn là cái cốt lõi trong con người cháu từ lúc sơ sinh, vẫn Bắc
kỳ rau muống mắm tôm, Bắc kỳ truyền thống, Bắc kỳ muôn thuở…Nhưng ông Trời oái
oăm lại sai ông Tơ bà Nguyệt xe duyên cháu làm thằng tù khổ sai chung thân cho
một bà vợ Nam kỳ quốc. Lạ thật ! Duyên hay nợ đây Trời !
Hồi còn bé, thú
thật cháu chẳng ưa gì Nam kỳ. Còn ghét, còn hận nữa là khác. Chuyện cũng dễ hiểu
thôi : lần đầu cắp sách đến trường tiểu học Bàn Cờ ở quận 3, Sài Gòn, chỉ có
cháu với một thằng nhô nữa là Bắc kỳ. Thằng này có hàm răng đưa hơi xa ra phía
trước, mà văn chương Bắc kỳ gọi là “vẩu”, còn Nam kỳ gọi đơn giản và rất tượng
hình là cái “bàn nạo dừa“. Bố nó (không vẩu tí nào) rất thân với bố cháu (cũng
chẳng có bàn nạo dừa) vì cả hai gia đình cùng đi chung chuyến tàu “há mồm“ vào
Nam năm 54. Hai thằng Bắc kỳ con nhất định ngồi cạnh nhau tạo thế liên hoàn “dựa nhau mà sống“ trong cái lớp học 27
trự Nam kỳ con. Bọn chúng hè nhau trêu chọc, ăn hiếp hai đứa chúng cháu. Mỗi lần
ra chơi hai thằng Bắc kỳ con luôn tìm chỗ ít người mà đứng để khỏi nghe bọn Nam
kỳ đọc thơ chọc quê chửi bới. Thằng Vọng, đứa đầu xỏ và to con nhất đám (bây giờ
đang ở Canada) leo lên cây vú sữa giữa sân, đọc thơ rang rảng:
“Bắc kỳ ăn cá rô cây, ăn nhằm lựu đạn…chết cha Bắc kỳ”
Một thằng khác sẵn
giọng phụ họa :
Có cái thằng nhỏ nó “đao“ làm sao
Lỗ đ. nó dính cái cọng “rau”, Người ta ai mà kỳ như
“dzậy” ?
Thế là cả bọn đồng
loạt chỉ ngay vào bọn cháu rồi rống lên :
“Thôi rồi ! Bắc kỳ, Bắc kỳ !”
Cháu tủi thân lắm
! Ôi thôi ! buồn da diết, buồn vô biên, buồn phát nghiền !
Về nhà hỏi mẹ tại
sao gia đình mình lại vào đây làm quái gì để chúng nó trêu con suốt ngày. Mẹ
cháu rướm nước mắt, xoa đầu cháu giải thích đơn giản :
– Tại vì người
ta đánh nhau quá nên gia đình mình phải “ri cư “ vào đây con ạ ! Thôi chịu
khó đi con, mẹ biết làm sao bây giờ !
Nào đâu đã hết,
chúng nó còn hè nhau tụ tập trước cửa nhà cháu. Mẹ cháu cầm chổi lông gà ra đuổi.
Chẳng đứa nào sợ, trái lại còn tru tréo to hơn.
Chợt thấy hàm răng của mẹ cháu
nhuộm đen ngòm và bóng loáng, thế là chúng nó cứ thế mà gào :
“Bắc kỳ ăn cá rô cây, ăn nhằm cục c. , hàm răng đen
thùi ”
Trong gia đình,
chỉ có bố cháu là chẳng thằng Nam kỳ con nào dám giỡn mặt. Có lẽ nhờ khuôn mặt
có oai hay nhờ đôi mắt nghiêm khắc của ông, mà chúng sợ một vành không dám trêu
chọc một lời?
Ngày tháng qua
mau, cứ thế mà đám Bắc kỳ ”ri cư”, trong đó có gia đình cháu, vẫn sống phây
phây trên mảnh đất Nam bộ lạ hoắc nhưng trù phú này. Những cảnh chọc quê dần dần
biến mất, bạn bè nhiều hơn, trong đó dĩ nhiên không ít đứa Nam kỳ. Đứa Sài Gòn
chính tông, đứa Sa Đéc, đứa Vĩnh Long, đứa Mỹ Tho, Cần Giuộc…Nhưng đứa nào cũng
chửi cháu là ”thằng Bắc kỳ lắm mồm”.
Không ”lắm mồm” chứ để chúng mày ăn hiếp ông hả ? Nghĩ cho cùng, không ”lắm mồm”
thì đâu còn là Bắc kỳ nữa ! Thứ ”lắm mồm” được việc, ”lắm mồm” nghe vẫn bùi
tai, ”lắm mồm” dễ mến, thiếu thì nhớ, vắng thì mong, ”tay chơi” nhưng vẫn ”chân
tu”, gái Nam kỳ cứ thế mà…”lắc lư con tàu
đi”.
Càng lớn lên cháu càng khoái Miền Nam, khoái Sài Gòn, nơi dễ có nhiều
bạn, mà bạn lại không tồi. Nơi đó có dừa xiêm dzú sữa, có chè đậu xanh bột báng
nước dừa, có bánh bèo trét mỡ trắng phau phau, có nước mắm đường ngọt lịm, có
cá bống trứng kho tiêu, có trái cóc ngâm đường cắm que cà rem chấm muối ớt, có
quán cơm bà Cả Đọi, có cả những con đường hẻm ngoằng nghoèo dẫn đến nhà …chị
Tình.
Miền Nam và Sài
Gòn thật trong veo khoáng đạt, không tự tôn như cái Bắc kỳ đã có sẵn từ bẩm
sinh trong bụng cháu, không rườm rà ”màu mè ba lá hẹ”, chân thành thật thà, thẳng
ruột ngựa, không làm vẫn có ăn, chơi xả láng sáng về sớm, để rồi vẫn cứ yêu người,
yêu đời. Có lẽ cũng cùng một cảm nhận như thế nên đám Bắc kỳ ”ri cư” chúng cháu
mới vào Nam chỉ có cái quần xà loỏng trên ”tàu há mồm” đã lợi dụng thời cơ hè
nhau tung ra dành dân chiếm đất khắp cõi Nam bộ, mà lại ăn nên làm ra trên mọi
lãnh vực, trong đủ tầng lớp xã hội, nhất là vùng Sài Gòn Gia Định và các vùng
phụ cận, chỗ nào làm ăn ngon lành thuận lợi là mấy mợ Bắc kỳ rau muống sang tay
hàng loạt, ngoại trừ phía bên trong chợ Bến Thành và vùng Chợ Lớn, vì chẳng
thèm ”kèn cựa” với các chú Ba. Đã bảo rồi mà…: ” Bà đã nàm thì nàm thật chứ không thèm nàm nấy ne, nàm nấy nệ !”
Từ sau năm 75
thì Bắc kỳ lại càng ăn trên ngồi trốc, các cụ không tin cứ mở cái máy ”dzô tuyến chuyền hình” hay cái ”ra dzô” ra thì thấy liền, các ”xướng ngôn dziêng” hầu như ”chăm phần chăm” đều là Bắc kỳ, không cậu
thì mợ. Còn các mợ tiếp dziêng ”E Việt
Nam”, mợ nào mợ nấy đều khoe ”em người
Hà Lội” hết ráo ! Chẳng biết tại ”dziêng dzáng” hay ”phe đảng”
?
Bố cháu trái lại, cái chất Bắc kỳ đã ăn vào máu, thấm
vào cốt lõi xương tủy của ông từ bao đời, nhất quyết bắt anh em cháu phải thi
vào trường Chu Văn An (CVA), con em gái phải thi bằng được vào trường Trưng
Vương, toàn là những trường nổi tiếng từ miền Bắc, kéo theo các thày cô ”ri cư”
vào Nam. Phần vì bố cháu là cựu học sinh trường Bưởi, phần vì ông cũng có chút
thiên kiến và ít tin tưởng vào các trường miền Nam như Petrus Ký hay Gia Long.
”Mình dân Bắc
thì phải học trường của người Bắc, chúng mày đừng có bàn với bạc lôi thôi
!”, bố cháu phán cứ như đinh đóng cột.
Mà lạ thật ! Vào học Chu Văn An mới thấy toàn đám học
sinh Bắc kỳ, le que vài trự Nam kỳ lạc lõng vô duyên, đếm chưa đủ mười đầu ngón
tay đã hết đứa Trung kỳ. Cho đến các thày đa số cũng lại Bắc kỳ nốt, từ thày hiệu
trưởng Dương Minh Kính đến thày thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Còn bên Petrus Ký thì
ngược lại, hầu hết Nam kỳ. Hóa ra vung nào thì vẫn cứ đi tìm nồi nấy, hay hoặc
giả có chính sách của chính quyền thời đó hay không ?
Chẳng thành vấn đề, chỉ
biết bọn Nam kỳ Petrus Ký châm biếm đổi tên Chu Văn An thành …Chết Vì Ăn ! Cháu
tức máu trả đũa, rằng chúng mày ghen ông vì chúng mày chiêm ngưỡng các em Bắc kỳ
Trưng Vương mà thèm nhỏ dãi, nhưng sờ vào thì chúng mày sẽ thành con dế mèn để
các em Bắc kỳ thọc cọng nhang sau gáy thổi quay vòng vòng ! Tức quá, mấy trự Petrus
Ký chỉ biết ”ngậm ngùi” đồng ca bản ”Khúc nhạc đồng quê” rằng thì là :
”Quê hương tui
Bắc kỳ nhào dzô quá trời
Bên
bờ sông bên bờ ao…trồng rau muống !”
Hay cũng là
: ”Quê hương tui cái mùng mà kêu cái màn !….”
Thôi thì cũng đúng thôi ! Mấy trự Nam kỳ hay Trung kỳ
chỉ cần nghe một mợ Bắc kỳ uốn éo ra chiêu vài đường lưỡi thì đã nhũn như chi
chi, mắt trợn ngược, mồm há hốc, quên luôn cả tên họ mình. Chỉ có trai Bắc kỳ mới
trị nổi các mợ Bắc kỳ thôi ! Này nhé, các cụ cứ chịu khó nhìn chung quanh đi, cứ
một trăm trự Nam kỳ chưa chắc có được một trự vớ được một mợ Bắc kỳ. Tìm mỏi
con mắt mới có một trự ”diễm phúc” bế được một mợ mang về nhà thì bảo đảm suốt
cuộc đời còn lại chỉ biết bốn chữ ”gọi dạ bảo vâng”, răm rắp tuân lệnh bà, chẳng
bao giờ còn nhìn thấy mặt trời, mặc dù suốt ngày ngửa mặt than Trời ! Đấy mới
chỉ là các mợ Bắc kỳ 54 thôi nhé ! Gặp cỡ các mợ 75 hay các mợ quê quán Hà Đông
hay Bắc Ninh ”…cầm roi dạy chồng” thì ôi thôi ! cái te tua nó kéo luôn theo cả
tông ti họ hàng, suốt đời hưởng ”cái thú đau thương”, nghe chửi cứ tưởng
nghe…hát.
Hỡi các chú Nam kỳ hậu sanh: chớ chơi dại! Đừng nghe ông Phạm Duy hát
bài ”Cô Bắc kỳ nho nhỏ” mà ham, lừa đấy ! Gặp Nam kỳ thì cái ”nho nhỏ” kia sẽ
phình to hơn cái vại, mà cái vại có nanh ! Ngược lại, một cậu Bắc kỳ rau muống
quơ được một cọng giá Nam kỳ ”đem về dinh” –vụ này nhiều lắm- thì cứ như ”rồng
thêm cánh”, như ”diều gặp bão”, như lái ô tô không cần Navigation… cả đời có
người ”nâng khăn sửa túi” không công. Hóa ra hôn nhân cũng có quy luật đấy chứ
:
Chồng
Bắc kỳ + vợ Bắc kỳ = Vợ chồng đề huề, nếu biết cách
Chồng
Bắc kỳ + vợ Nam kỳ = Chồng phây phả, phè cánh nhạn.
Chồng
Nam kỳ + vợ Bắc kỳ = Chồng te tua, lưng còng.
Nhưng đã là ”luật” thì bao giờ cũng có ”luật trừ”,
nghĩa là cháu không dám vơ đũa cả nắm đâu, với lại cháu chỉ lợi dụng cái ”tự do
ngôn luận” trên xứ người, xin bàn bậy vài chữ ngu ngơ để các cụ trong lúc ”trà
dư tửu hậu” đem ra trước là mua vui, sau là cho bớt chút căng thẳng trong cái
cuộc đời … đen như mõm chó này. Xin lỗi các cụ, nẫy giờ nói loanh quanh mãi,
bây giờ cháu xin trở lại chuyện của cháu.
Bố cháu nghiêm khắc lắm và dĩ nhiên giáo dục con cái
theo truyền thống Bắc kỳ. Đã có gốc có ngạnh, có cả sự nghiệp bề thế trong Nam
nhưng vẫn…thờ cơm Bắc kỳ, vẫn lễ phép Bắc kỳ, vẫn giữ giọng nói Bắc kỳ và thậm
chí còn ra lệnh, dâu rể cũng phải…Bắc kỳ ! Mỗi lần cháu dẫn bạn gái về nhà, bố
cháu liếc mắt một cái là biết ngay cô nàng Bắc hay Nam. Có một ông bố tinh đời
như thế đôi khi lại…phiền. Với một mợ Bắc kỳ, bố cháu thân mật tươi cười ”Cháu vào nhà chơi ! bố mẹ cháu khỏe mạnh
không ?”, cứ làm như quen biết từ lâu vậy. Gặp cô ả Nam kỳ thì lạnh nhạt
khinh khỉnh ”Không dám, chào cô !” Cô
bạn gái Nam kỳ mặt nghệt ra thưởng thức văn chương Bắc kỳ, còn cháu nghe qua mà
thốn từ dạ dầy đến ruột non. Nghe Bắc kỳ chê, nghe Bắc kỳ chửi, mà cứ tưởng
mình đang nghe thơ phú hay nghe nhạc êm dịu mới chết chứ ! Nếu quen cô nào Trời
sinh có mấy cái vòng hơi…sexy một tí, Bắc cũng như Nam, cháu phải dấu biệt vì sợ
lựu đạn nổ tung trong nhà. Điệu này coi bộ hơi khó sống. Thôi thì Bắc Trung Nam
cũng một nhà, hạnh phúc lứa đôi đâu phải do thằng hàng xóm, mà là do chính
mình. Thế rồi cháu đã từng hạ quyết tâm với bố: lấy vợ Bắc kỳ, cho phải đạo làm
con. Em nào Bắc kỳ, rước về nhà cho bố xem mặt mà bắt hình dong (cứ như đi mua
gà chọi). Em nào Nam kỳ, điểm hẹn sẽ là mấy ống cống dưới gầm cầu xa lộ Đại
Hàn.
Thiên bất dung nhan! cháu lại phải lòng một ả Nam kỳ,
Nam kỳ không lai giống, cái thứ Nam kỳ Gia Long kên kên xí xọn. Hồi đó cháu đi
lính Không Quân của miền Nam, thấy đám phi công trời đánh đa số cũng đều là Bắc
kỳ, chẳng hiểu tại sao? Dân Nam kỳ cũng có, Trung kỳ lại càng ít hơn, nhưng đứa
nào cũng có …”cái mồm Bắc kỳ”.
Cháu
còn nhớ khi thi gia nhập Không Quân, phải đủ ký lô, đủ kích thước, lục phủ ngũ
tạng bị khám tuốt luốt, phải trần trùng trục như con nhộng rồi nhẩy lên nhẩy xuống
cho mấy ông bác sĩ …”vạch lá tìm sâu”,
chứ đâu có thi tuyển đứa nào ”lắm mồm”! Thế mà thằng nào thằng nấy đều có cái
”chứng chỉ lắm mồm” cao hạng dấu kỹ trong túi áo bay. Một hôm đang trực phòng
hành quân thì ông xếp (ông này Nam kỳ quốc) hỏi có thằng nào rảnh ra phi đạo chở
con cháu gái vợ của xếp theo tàu từ Sài Gòn ra Nha Trang đem về nhà bà vợ đang
có bầu sắp đẻ. Tưởng đi biệt phái hành quân chứ cái màn này cháu khoái lắm : ”Chuyện nhỏ mà xếp, có tui ngay !”
Ông xếp của cháu cũng chẳng vừa, nhìn thấu tim gan
thằng đàn em :
”Lẹ lẹ lên
coi, tàu sắp đáp rồi đó, sách tao mày học hết còn dư có cái bìa, nhưng mà từ từ
thôi nghe cha nội, lạng quạng con mẻ chửi tao thấy bà !”
Lúc đó cháu đâu có ngờ rằng, cái chuyện nhỏ như mắt
muỗi này lại thành chuyện lớn, lớn khủng khiếp, ảnh hưởng đến hết cả cuộc đời
cháu !
Cô cháu gái ông xếp không có cái dạng ”ngực tấn
công, mông phòng thủ” như trong ”xi la ma”, thế mà ngay từ phút ban đầu cháu đã
bị dáng ngay tim một cái búa tạ chình ình chứ chẳng phải tiếng sét tầm thường.
”Cô
đi máy bay có mệt lắm không ?”
”Dạ
!”.
”Ra
thăm cô dượng hả ?”
”Dạ
!”.
”Cô
lên xe đi, tôi đèo cô về”
”Dạ
!”…
Chèng đét ơi ! sao mà cụt ngủn cộc lốc thế bà nội ?
Cái gì cũng ”dạ” hết ráo thì cháu biết đâu mà rờ ! Đúng gái Nam kỳ ! Chợt nghĩ,
không biết bà dzợ xếp tới giờ này có còn ”ngây thơ”, ”dạ dạ” với xếp như dzậy nữa
hay không ? Xếp cháu đang ở San José, nếu xếp có đọc những giòng chữ này thì xếp
cũng bỏ qua dùm vì thằng em đã thuộc lòng trọn bộ sách của xếp từ khuya rùi !
Từ đó cháu với nàng rủ rỉ rù rì cùng nhau đánh vần mấy
chữ ”hình như là tình yêu”. Cuộc tình
của cháu với nàng êm ả như quả lắc đồng hồ treo trên tường phòng khách nhà
cháu, nhưng mỗi khi nghĩ đến bố cháu thì quả lắc đồng hồ bỗng ngất ngư như bị đứt
dây thiều. Thương quá, cháu đánh liều, ”mấy
sông anh cũng lội, mấy đèo anh cũng qua”, chuyến này nhất quyết không chui
ông cống gầm cầu xa lộ, mà dắt nàng về nhà trình diện bố. Bố vẫn khinh khỉnh:
”Không
dám ! chào cô”. Nàng vui tính: ”Ba anh coi ngầu quá hén!”, cháu tỉnh bơ: ”Không ngầu sao làm bố anh được !”.
Thật ra thì bố cháu đâu có ghét Nam kỳ, ông chỉ phàn
nàn rằng dân Nam kỳ được trời đãi, cho sống trên mảnh đất mầu mỡ phong phú,
không làm vẫn có ăn, mà lại ăn ngon nữa, nên có tính lè phè, hoang phí, không
chăm chỉ hạt bột, không cần cù tiết kiệm như Bắc kỳ. Ông chỉ vì thương con, lo
cháu lấy nhằm cô vợ Nam kỳ cả ngày chỉ biết…phè cánh nhạn, ăn no lại nằm, thì
con cưng của ông sẽ thành thân trâu ngựa suốt đời. Còn mẹ cháu, vốn dĩ nhà quê
răng đen mã tấu bảo rằng, nghe Nam kỳ nói chuyện cứ tưởng nghe tiếng nước
ngoài, chỉ hiểu một nửa ! Cháu cãi lại, Bắc kỳ cũng có khối đứa lười, lười
như..cháu đây là hết mức rồi !
Một hôm cháu đưa nàng về nhà, gặp lúc bố mẹ cháu
sửa soạn mở tiệc đãi ông bác từ Hố Nai lên thăm. Ông bác vui tính bảo tiện bữa
ngồi ăn luôn, cháu đang chần chừ thì nàng vén áo hạ ngay cái bàn tọa tròn lẳng
xuống ghế, cháu kéo lên không kịp. Cháu thủ thỉ giải thích cho nàng rằng, đi
đâu gặp khách Bắc kỳ mời ăn thì chớ có ăn liền, cứ để người ta mời dăm lần bẩy
lượt, ăn liền người ta chửi mình…chết đói ! Nam kỳ thì thẳng ruột ngựa, mời là
cháp lẹ, không cháp dọn xuống bếp, đói ráng chịu, không mời lần thứ hai, ai biểu
mời không ăn ! Bỗng mấy đứa em cháu thay phiên nhau : ”Mời bác xơi cơm, mời bố xơi cơm, mời mẹ xơi cơm, mời anh xơi cơm, mời
chị xơi cơm”, mời… mời… mời tùm lum!.
Thằng em út cháu mời dài nhất, mời
lâu nhất, mời từ trên xuống dưới , trong nhà chỉ có con Tô Tô đang nằm chực dưới
gầm bàn là nó không mời. Nó lại chẳng được ai mời để xơi, út mà ! nhưng rồi vẫn
xực ào ào ! Cô bạn Nam kỳ của cháu trố mắt nhìn cháu chẳng hiểu chuyện gì xảy
ra. Cháu vội ghé tai thì thầm :
–
Em mời gia đình ăn cơm đi !
–
Ủa ! gia đình anh mời em ”ăng” mà ? Bộ ”ăng” cũng phải mời…mời…xơi …xơi sao ?
Nàng ấp a ấp úng cũng ráng mời :
–
Dạ mời bác, mời bác, dạ mời… à… à… mời anh, mời em…
Chợt bố cháu lên tiếng :
–
Thôi đủ rồi, cháu mời người trên thôi, còn mấy em cháu không phải mời…Mà hay thật
! con bé này vui vẻ, ngoan ngoãn lắm ! sao con cứ ăn hiếp nó mãi !
Nghe bố cháu nói mà bụng cháu cứ như mở cờ, ông còn
cao hứng bảo khi nào nàng nấu cơm Nam kỳ cho gia đình cùng ăn. Cô nàng hí ha hí
hửng nói liền :
–
Dạ ! (lại dạ!), để bữa nào cháu nấu bún(g) mắm dzới thịt heo ba rọi cho bác
ăn(g), bún(g) mắm thịt ba rọi Trà Dinh ngoong nhức miền Nam nghe bác !
–
Sao ? cô muốn búng hả ? Lỗ tai tôi đây này, muốn búng bao nhiêu thì cứ búng đi
!
Thế là cả nhà cháu được một trận cười nắc nẻ. Nào đã hết đâu, mẹ cháu chợt bảo:
–
Cháu xuống bếp lấy cho bác mấy cái ”cùi dìa” với cái ”muôi” để trong ngăn kéo đấy
!
Nàng ngớ ra cứ như được nghe tiếng…Tây, nhìn cháu cầu
cứu. Cháu cười hì hì khoái tỉ, ra cái điều thông thái giải thích ngay :
–
Cái ”cùi dìa” Nam kỳ kêu là cái ”muỗng”, tại Bắc kỳ sống lâu với bọn Tây, chúng
nó gọi là ”la cuiller” thì Bắc kỳ gọi luôn là cái ”cùi dìa” cho tiện. Còn cái
”muôi” Nam kỳ kêu là cái ”vá”, chữ ”vê” thì đọc là ”dê” cho nên gọi là cái
”dzá”, phải không ?
Nàng đỏ mặt, bĩu môi : ”Cái đồ dzô dziêng, tui đi dzìa à nghen !”
Sau bữa cơm hôm ấy, hình như bố cháu bắt đầu ”chuyển
hệ”, có vẻ gần gũi thân mật với nàng hơn vì thấy nàng thật thà, có sao nói dzậy,
không bãi bôi, không vòng vo tam quốc, nhất là…không lười như ông nghĩ. Thừa thắng
xông lên, cháu thủ thỉ với mẹ cháu là cháu muốn lấy nàng làm vợ. Mẹ bàn với bố,
bố vẫn ngần ngừ. Tại bố cháu không biết đấy chứ, cháu đọc lóm từ một quyển sách
nào đó người ta viết rằng, trong lịch sử nước ta hầu hết các vua chúa miền
Trung đều có nhiều bà vợ bé, mà hầu như bà nào là Chánh Cung Hoàng Hậu cũng đều
là Nam kỳ: vua Minh Mạng có rất nhiều vợ, đa số là các bà Nam kỳ, Chánh
Cung là bà Hồ Thị Hoa, người Biên Hòa; Chánh Cung của vua Thiệu Trị là bà Từ
Dũ, người Gia Định; Vợ chánh của vua Bảo Đại là bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam
Phương Hoàng Hậu), là người Gò Công. Mấy ông vua cũng tinh đời đáo để ! Nhưng
cháu ”không phải là vua, nên mộng ước thật bình thường”, chỉ xin ”…quỳ lậy Chúa trên Trời, sao cho lấy được
…con nhỏ Cái Bè con thương !” Thật là oái oăm: cá đã cắn câu mà bố cháu vẫn
chưa cho giựt cần! Tuy thế, thỉnh thoảng bố cháu cũng dò hỏi về gia đình nàng.
Thì cháu đã nói rồi mà, ”quê Cái Bè, nội
Cái Răng, ngoại Cái Dồn”, ruộng đất mênh mông, sông nước dập dình, ăn nói
”ngắn gọn và dễ hiểu” chứ không ”dài dòng nhưng khó hiểu”… kiểu Bắc kỳ ! Chấm hết!
Ngày vui nhất đời cháu là ngày bố cháu ra lệnh sửa
soạn ”lên đồ dzía” đến thăm gia đình nàng. Sao bố cháu không nói thẳng thừng ra
là đi ”hỏi vợ”, đi ”chạm ngõ” cho xong. Nhưng mà cần gì phải ”chạm ngõ” với lại
”chạm cổng” cho rườm rà rắc rối, nhà của nàng cháu biết từng phòng, quen từng
góc, rõ từng cột. Mỗi lần cháu từ đơn vị ”dù” về đều có chút quà biếu ba má
nàng, cho mấy đứa em nàng và cho cả cô Ba giúp việc trong nhà (học theo sách dụ
khị của xếp cháu đấy !). Lần nào gặp ba nàng là lần đó có…nhậu. Đồ nhắm lúc nào
cũng có sẵn, lúc củ kiệu tôm khô, khi ra sau hè ngắt mấy trái xoài tượng chấm mắm
nêm ngào ớt, kẹt quá cột sợi ny-lông dzô ngón chân cái, đầu kia cặm mấy con
trùng liệng xuống sông, cũng câu được mấy con cá lên nướng làm mồi. Nam kỳ trù
phú mà ! Ổng không nhậu bia nhậu rượu, mà nhậu đế; không nhậu bằng cốc hay ly
mà nhậu bằng tô, tô nào tô nấy bằng cái bát ăn cơm nhà cháu. Thế mà ổng lúc nào
gặp cháu thì cứ nói rằng: ”Dô dzới tao
dăm ba sợi nghe mày !”
Chưa tới nửa sợi cháu đã guắch cần cẩu !
”Lính tráng như mày chi mà yếu xìu sao oánh
giặc nổi ? Dzô cái coi !”
Ổng thương, ổng coi như con như cháu, ổng mới kêu
cháu bằng ”mày”. Tiếng ”mày” của Nam kỳ biểu lộ cái chân tình, sự
gần gũi thân thương, không như Bắc kỳ khi đã xổ ra tiếng ”mày” rồi thì … ô hô !
ô hô ! thiện tai ! thiện tai ! chạy cho lẹ !
Một hôm đang nướng con mực khô nhậu lai rai với ổng,
bỗng có khách gõ cửa bước vào, mặt ổng sáng lên như sao băng, vừa cười vừa nói
:
–
Chèng đéc ơi anh Sáu Lèo ! hôm qua tui chờ qua qua mút chỉ cà tha, hôm qua qua
nói qua qua mà qua hổng qua, hôm nay qua nói qua hổng qua mà qua lại qua, nay
qua rồi có thằng rể tương lai tới thăm, nhào dzô chơi vài xị, hôm nay có ớt nè
qua !
Nói chi mà cứ qua đi qua lại, qua tới qua lui, nói
cũng như thơ phú đấy chứ, thế mà mẹ cháu cứ nói tiếng Nam kỳ nghe sao như tiếng…
nước ngoài !
Bắc kỳ vẫn có câu ”dâu là con, rể là khách”, nhưng Nam kỳ thì ”dâu là con, rể cũng là…con luôn”. Bố dzợ chịu chơi lại gặp thằng rể
cũng chịu chơi luôn, dzô ba xị rồi thì coi như…bạn, chơi xả láng sáng dzề sớm,
còn má dzợ bỗng nhiên thành… chơi chịu !
Nàng kể cho cháu nghe, nhiều lần ổng
đi nhậu quá giờ giới nghiêm chưa chịu về, cả nhà trông đứng trông ngồi. Chợt
nghe tiếng xe Vespa quen thuộc chạy ngang nhà, cứ thế nghe cái ”dzù” rồi lại chạy
mất tiêu, lại nghe cái ”dzù” rồi đi tuốt luốt ! Sinh nghi, nàng chạy ra cổng
đón đường chặn xe : ”Ba ui ! Ba ui ! Tới
nhà rồi nè !”.
Ổng chợt tỉnh, quẹo dzô thắng cái ”két”, xe đổ cái rầm,
ổng té cái đụi, miệng lèng nhèng ” Ủa,
nhà mình đây rồi sao? Dzậy mà tao chạy dzòng dzòng kiếm hoài hổng ra !”
Ngày cưới, cháu chọn nhà hàng Đại La Thiên của chú
Ba tuốt bên Chợ Lớn cho có vẻ trung dung, không Nam cũng không Bắc mà là cơm
Tàu. Không xài Karaoke nhưng chơi nhạc sống. Có ông chú dzợ tên là Ba Phoóng
làm nhạc trưởng cho mấy bà xồn xồn Nam kỳ lên sân khấu ca cải lương hà rầm.
Hình như 7 thứ nghệ thuật của nhân loại đối với Nam kỳ đều tóm gọn trong mấy
câu dzọng cổ thiệt mùi. Đám cưới cháu người ta chụp nhiều hình lắm.
Ông bố vợ
coi hình gục gặc cái đầu :
”Chèng đét ơi
! thằng rể tao chụp hình coi phông độ dzữ hén ! Ráng nghe mày !”
Cháu chẳng
hiểu ổng nói cháu phải ráng cái gì ? Nhưng có một cái cháu phải ráng là cái chắc,
ai biểu ham dzợ Nam kỳ…mũi cao chân dài !
Còn bố cháu xem ảnh thì lại phán một
câu xanh rờn : ”Con dâu bố chụp với bố ảnh
này đẹp quá, giá mà đứng cạnh bố con khoanh tay lại thì còn đẹp hơn biết bao !”.
Ông xếp cháu, khơi khơi tự nhiên thành ông dượng, sẵn
có dăm ba ly nhưng mắt vẫn láo liên ngó bà cô, rồi len lén kể lể làm oai :
”Thấy chưa mày! Hồi đó tao xách máy bay xuống
Vĩnh Long rồi lạng qua Cái Bè, mới lạng chơi dzài ba dzòng là dzớt luôn bà cô
mày, ngon chưa !”
Cám ơn ”ông xếp dượng” đã có công ”nối giáo cho giặc”
rồi rước luôn giặc vào nhà. Còn mấy thằng bạn Không Quân quỷ sứ thì xúm nhau ca
bản ”Mùa thu chết ”… đã chết rồi, cho mày…chết luôn!
Ngày qua ngày, cháu không chết mà vẫn sống nhăn răng
với bà vợ ”quý phái bình dân”, bây giờ đã có 4 con với 3 đứa cháu ngoại để nựng.
Nam kỳ cũng chăm chỉ đấy chứ ! Thế là xong một đời phiêu bạt giang hồ, bay bướm,
quậy phá ! Được cái vợ cháu cưng cháu lắm (Nam kỳ mà!), bao nhiêu công việc
trong nhà từ lau nhà, rửa chén, hút bụi, trồng cây, giặt đồ…vợ cháu dành làm hết
ráo. Bả nói ”tay chân ông như thằng
cùi, làm đâu hư đó, để tui làm luôn cho lẹ !”. Cháu đi làm mang tiền về, bả
cũng không thèm động tới, bảo rằng ”tui hỏng
cần anh nuôi tui !”
Thế nhưng vợ cháu ghen khỏi nói, trong vườn trồng nhiều
ớt hơn trồng hoa, ghen có đẳng có cấp, ghen có kế hoạch, có phương án đàng
hoàng. Ghen thì ghen, lâu lâu cháu cũng theo bạn bè…nhảy dù vài sô, về nhà im
thin thít, thế mà bả cũng ”nghe” được mùi, lườm lườm, nguýt nguýt, rồi cũng huề
tiền. Sau này cháu mới khám phá ra vợ cháu rất sòng phẳng, đâu ra đó, nếu ”ăn
bánh trả tiền” là…cho qua cầu gió bay, không thèm chấp. Một hôm vô tình đọc báo
thấy tin cô Quờn, người Sóc Trăng, ghen chồng lăng nhăng, lẳng lặng lựa lúc chồng
đang say túy lúy, xách con dao bếp cắt luôn…của quý của chồng đem quăng sau vườn.
Cô Quờn ra tòa ngồi chơi 4 năm tù. Trời đất Thiên địa ơi! Nam kỳ mà ghen kiểu
này chắc cháu chết sớm, cháu dấu luôn tờ báo, ai dè vợ cháu chu môi oỏng ẻng :
”Cái đó còn đỡ à nghen ! gặp tui là tui
cho luôn dzô cái máy xay thịt rồi quăng cho bầy gà ăn, chớ giờ người ta dzăng
minh lắm, khâu nối lại mấy hồi !”
Má ơi là má ! Cháu nghe mà ớn lạnh xương
sống! Chơi kiểu này thì hơn xa các mợ Bắc kỳ rồi ! Nhưng cháu lại được phép kéo
bạn bè về nhậu…xả láng, nhậu ”vô tư”.
Xỉn quá thì : ”Anh
mệt rồi nghen, uống ly nước đá chanh nè, rồi dzô đây em cạo gió hết liền !”.
Bạn bè ói mửa tùm lum thì : ”Hổng sao đâu, anh ngồi tiếp mấy ảnh đi, em dọn cho !”
Mấy thằng bạn có vợ Bắc kỳ ngó phát thèm !
Chắc khí thiêng sông núi Bắc kỳ linh thiêng hùng vĩ
, hay nói theo khoa học hiện đại là cái ”dzen”
Bắc kỳ quá mạnh, nên vợ cháu nửa dưới vẫn còn là Nam kỳ, nhưng nửa trên đã hóa
thành Bắc kỳ: không nói ”bự bành ky”
mà nói ”to vật vã”; không gọi ”trái bom” mà gọi ”quả táo”; thích ăn canh rau muống hơn nấu canh chua; nhưng đặc biệt
nhất là ăn nói không còn ”ngắn gọn và dễ hiểu” như xưa, mà bây giờ thì.. ôi
thôi ! ”dài dòng, ào ào như thác đổ”, nghe riết muốn khùng ! Bố cháu ăn ”bún(g) mắm thịt ba rọi” của vợ cháu nấu,
đến phát nghiền, nghiền luôn cả chén nước mắn pha đường. Nhà cháu có bốn anh em
trai thì bố cháu có tới ba ả dâu Nam kỳ, nhưng cả đám hợp lại vẫn thua xa một mợ
dâu Bắc kỳ, ăn nói ngọt như đường phèn, dịu dàng khoai thai như thiên nga, thêm
cái tài…chửi như hát di truyền. Thế là cái mộng ”dâu rể phải là Bắc kỳ” của bố
cháu bị nước sông Cửu Long vùng Nam bộ cuốn trôi tiêu tùng. Bố cháu bây giờ
cũng rành ”sáu câu” về Nam kỳ lắm, ông bảo người ta nói rằng:
– “Tính tình gái Nam kỳ giống như mưa Sài Gòn: đỏng đảnh nhưng mau quên;
tính tình gái Bắc kỳ giống như mưa Hà Nội: âm ỉ và dai dẳng”.
Lợi dụng lúc ông đang vui vẻ, cháu bèn phụ họa :
– Bố biết không, người ta cũng bảo : ”Ở Sài
Gòn nhiều em sinh viên giống như ca ve; Ở Hà Nội nhiều em ca ve giống như sinh
viên”, đúng không bố ?
Bố cháu quắc mắt : ”Sao dám ăn nói lăng nhăng thế hả ?”.
Cháu chuồn nhanh kẻo ông nổi giận. Thôi thì đến nước
này rồi, cúi xin các cụ cũng rộng lòng bỏ qua cho cháu nếu có gì gọi là thiên vị,
bởi vì con gái Nam kỳ bây giờ đã là ”cây
nhà lá vườn” của cháu, nên cháu đành phải ”ta về ta tắm ao ta”, ôm lấy cái ao Nam kỳ, ôm cứng cái cây sầu
riêng Nam bộ cho phải đạo ”tình Bắc duyên
Nam”, nếu không cháu phải ôm thùng mì gói suốt đời. Mong sao các cụ đọc
xong rồi bỏ qua, cứ coi như một chuyện tầm phào, bởi vì cháu đã liều mình như mấy
mợ Hà Nội làm con chim đa đa, không lấy vợ gần mà lấy vợ xa, xa tuốt luốt tận
cái xứ Nam kỳ với giòng sông 9 cửa.
Nguyễn Hữu Huấn