Cộng Sản Hà Nội được coi là một chính thể
lừng danh vì vi phạm nhân quyền nặng nề nhất tại Đông Nam Á
– theo tường trình của UB Đối Ngoại Hạ
Viện Hoa Kỳ. Các công ty gọi là tuyển nhân công của chính phủ do Cộng đảng
kiểm soát chuyên buôn bán cung cấp con người từ nam, nữ, trẻ em cho mọi thị trường
từ tình dục cho đến lao động khổ sai - đem về một nguồn lợi quá lớn cho đảng.
Thống kê dữ liệu về việc xúc tiến buôn bán con người
của Cộng Sản Hà Nội lên đến mức báo động và rõ như ban ngày nhưng đừng hòng tìm
thấy từ nguồn tin xác thực từ chính phủ Hà Nội. Bộ Lao Động & Thuơng Binh
Xã Hội của Cộng Sản Hà Nội miễn cưỡng đưa ra con số nhỏ bé 2935 nạn nhân từ năm
2004 đến năm 2009 - trong khi các tổ chức quốc tế đã
có bản tường trình với con số hơn 400 ngàn người Việt Nam bị bán đi tính từ năm
1990 cho đến nay; và đó chỉ là con số của những trường hợp buôn bán con
người đã bị bại lộ, còn con số những nạn nhân người Việt Nam bị (đảng) bán đi
chưa bị bại lộ có thể lên đến thêm cả chục ngàn nạn nhân nữa.
Hình thức buôn bán con người thông qua chiêu bài “xuất
khẩu lao động ” không còn lạ gì đối với xã hội Việt Nam. Sau khi Cộng Sản thôn tính Việt Nam Cộng Hòa năm 1975
- hàng trăm ngàn lao công đã được “xuất khẩu” sang
Liên Xô và khối Đông Âu để trả nợ chiến tranh. Không biết bao nhiêu lao
công Việt Nam tại Đông Âu lâm vào cảnh túng quẫn, thất nghiệp và mất khả năng
tài chánh để hồi huơng. Cộng Sản Hà Nội cũng nhanh
chóng trở thành một tổ chức buôn bán trẻ em, phụ nữ cho thị trường nô lệ tình dục
kể từ đó.
Cộng Sản Hà Nội bị cảnh cáo về thành động khuyến
khích buôn bán con người cho thị trường tình dục :
Cộng Sản Hà Nội trở thành tổ chức cung cấp nô lệ
tình dục và lao động khổ sai chủ yếu trên thế giới- thậm chí có nhiều trường hợp
nạn nhân từ lao động khổ sai bị ép trở thành nô lệ thình dục.
Xảo trá và lường gạt trong hôn nhân là một cách để Cộng
Sản Hà Nội buôn bán phụ nữ cho thị trường tình dục. Mồi để nhử các nạn nhân là
năm ngàn dollar Mỹ, một số tiền quá lớn khiến các gia đình thôn quê dưới chế độ
XHCN hầu hết là nghèo rất khó mà từ chối. Phụ nữ và các bé gái dưới vị thành
niên từ đó được bán qua thị trường tình dục ở Campuchia, China, Lào, Thái Lan,
Mã Lai, Đài Loan, Ma cau, Trung Đông, và ngay cả Âu châu. Tương tự, trẻ em ở
Campuchia cũng được bán vào Việt Nam để giúp Việt Nam nhanh chóng trở thành một
nơi thiên đường du lịch cho huởng lạc tình dục trẻ em đối với du khách khắp nơi
từ Nhật, Nam Hàn, Trung Cộng, Đài Loan,Anh, Úc, Âu châu, và ngay cả du khách từ
Hoa Kỳ. Tàn nhẫn và phi truyền thống luân lý hơn hết, phụ nữ Việt Nam còn được
“xuất” hay bán sang các nước chỉ để làm “thợ đẻ” không thôi- tức là đẻ con cho
những gia đình không thể sinh con hoặc đẻ con để cung cấp cho “thị trường con
nuôi” mà khách hàng là những gia đình ở các quốc gia giàu có.
Một trường hợp điển hình tại
nước Nga:
Cô Danh đã tường trình trước Quốc Hội Hoa Kỳ về đường
dây từ Việt Nam có Cộng đảng bảo kê buôn bán phụ nữ sang Nga
thông qua dụ dỗ lừa gạt là sẽ có lương hậu, thu nhập cao cho những nạn
nhân này khi họ sang Nga làm tiếp đãi viên. Thực tế, họ bị bán vào các nhà thổ
tại Moscow. Đường dây buôn bán phụ nữ này được tổ chức
bởi các công ty quốc doanh tuyển người, đem đến không biết bao nhiêu là
tiền cho các đảng viên. Còn các nạn nhân khi đến Nga bị giữ passport, chẳng được
trả đồng lương nào cả và không có sự chăm sóc sức khỏe hay những hỗ trợ để quay
về lại quê nhà. Nhiều phụ nữ Việt Nam đã bị cầm cố tại những nhà thổ ở Nga hơn
bốn năm trời và luôn bị đánh đập tàn nhẫn nếu muốn rời khỏi hay cố tình bỏ trốn.
Và dù là bị cầm cố như vậy, họ vẫn phải trả tiền nhà, tiền ăn tiền quần áo(?!)
Người em gái của cô Danh là cô Huỳnh Thị Bé Hương là
một trong những nạn nhân chịu cảnh thảm thiết này từ chính sách buôn bán con
người của đảng. Khoảng sau vài tháng bị giam cố nghiệt ngã, Huơng phải nhờ gia
đình nghèo khó của cô gởi tiền để lo sức khỏe – gia đình cô lật đật gởi 300
dollar Mỹ để giúp cô. Sau đó, cô lại gọi về nhờ giúp 2000 dollar Mỹ để bay trở
về sau khi công ty quốc doanh tuyển người (để bán) tại Việt Nam đồng ý hủy hợp
đồng. Cô Danh đang ở Mỹ mượn tiền để gởi đến cơ quan này, rồi số tiền đòi hỏi cứ
tăng kên, từ 2000 dolllar lên 4000 dollar, rồi 6000 dollar- rõ ràng, đây là
cách giữ người siết tiền của đường dây buôn người hợp pháp này.
Vào tháng Hai năm 2013, sau 13 tháng làm nô lệ tình
dục, cô Hương trốn khỏi nhà Thổ cùng với ba nạn nhân Việt khác. Cô Hương ráng
liên lạc với tùy viên sứ quán Nguyễn Đông Triều tại tòa đại sứ Cộng Sản Hà Nội ở
Moscow xin cầu cứu giúp - Triều nhẫn tâm làm ngơ và nói với cô Huơng rằng: ”Cơ quan nào đem cô đến đây thì bảo cơ quan
đó đem cô về!” Hai ngày sau, cô Huơng cùng ba người trốn đi bị bọn băng đảng
bắt về lại nhà thổ và bị đánh đập tàn nhẫn. Sau đó, cô Huơng mới khám phá ra má
mì của nhà thổ này là bạn mần ăn, ăn thông với các tùy viên sứ quán của Cộng Sản
Hà Nội tại Moscow- nên cô Huơng cùng ba người trốn đi đã bị bán rẻ bởi bọn cán
bộ đảng viên làm ở sứ quán.
Khi cô Danh biết được tình trạng thảm khốc của người
em gái minh, cô đã liên lạc được với hai tổ chức phi chính phủ tại Mỹ thay vì
liên lạc với nhà cầm quyền Cộng sản Hà Nội cố tâm bán rẻ con người, đó là hội “Boat
people SOS” và liên hội “Coalition to Abolish Modern-Day Slavery in
Asia” chuyên hỗ trợ cho các hoạt động chống buôn người- nhờ vậy, cô
Danh có cơ hội thông báo chi tiết nội tình cho Dân Biểu Al Green và Bộ Ngoài
Giao Hoa Kỳ . Thông qua nỗ lực vận động chung của hai hiệp hội trên cũng như của
Dân Biểu Green cùng báo chí, cô Huơng cuối cùng cũng đã có thể về lại quê nhà với
điều kiện rất ngặt nghèo là gia đình cô Huơng bị buộc phải chấm dứt mọi truy tố
hay tố cáo cơ quan “tuyển người” của đảng là tổ chức bán buôn người trá hình
trước công pháp, cũng như phải chính thức xin lỗi má mì của nhà thổ này là Thúy
An về việc kết án bà ta buôn bán tình dục trên thân phận những thiếu nữ nghèo.
Không những vậy, cô Danh còn buộc phải viết một lá thư…”cám ơn” các tùy viên sứ
quán Cộng sản Hà Nội tại Moscow ”giúp đỡ” cô Huơng quay về.
Cuối cùng, cô Huơng cũng đã được chở đến sứ quán của
Cộng đảng tại Moscow - tại đây, cô được tùy viên sứ quán là Kiên giải thích về
các điều kiện liệt kê trên và cô Huơng bị buộc phải viết một lá thư khẳng định
những gì cô báo cho gia đình về má mì Thúy An là hoàn toàn bịa đặt cũng như phải
viết một lá thư “cám ơn” nhân viên toàn đại sứ cùng má mì Thúy An đã giúp cô trở
về quê nhà (?!)
Đương nhiên là tòa đại sứ Cộng Sản Hà Nội tại Moscow
không những không giúp mà còn làm ngơ trợ giúp má mì Thúy An gia hại các nạn
nhân – cô Huơng thoát được thảm cảnh hoàn toàn là do áp lực ngoại giao từ phí
Hoa Kỳ cũng như nỗ lực từ thiện của hai tổ chức phi chính phủ kể trên và sự tận
tâm hỗ trợ của giới báo chi truyền thông quốc tế. Cộng Sản Hà Nội thiệt là dối
trá và nhẫn tâm!
Buôn bán lao động khổ sai:
Cộng Sản Hà Nội “xuất khẩu” hay bán con người ra nước
ngoài lao động khổ sai nhằm giảm bớt đối kháng bất mãn trong lòng xã hội, một kế
sách đã được thông chế Tito thực hiện ở Nam Tư trước đây. Tito là một tên Cộng
Sản tàn bạo ngồi ở ghế “tổng thống suốt đời” cho đến khi chết vào năm 1980.
Cộng Sản Hà Nội đẩy mạnh xuất khẩu bán
buôn con người cho các thị trường lao động khổ sai khắp nơi trên thế giới nhằm
che giấu bất lực của nhà cầm quyền trong việc tạo công ăn việc làm ngay tại đất
nước và
đồng thời, tạo ra một khoản thu nhập lớn đem về cho đảng.
Năm 2007, ngân sách của đảng đã thu về được
hai tỷ Mỹ kim từ sự bán buôn xuất khẩu con người cho lao động khổ sai.
Việt Nam hiện có khoảng 51.4 triệu người đang ở tuổi lao động và 70% dân số là
dưới 30 tuổi. Bất chấp đẩy mạnh buôn bán con người tối đa, Cộng đảng vẫn phải
lo đối phó sự bất mãn của gần 10 triệu người thất nghiệp, theo thống kê của Quỹ
Tiền Tệ Quốc tế IMF.
Cộng sản Hà Nội cố bán ra thế giới khoảng 500 ngàn
người cho thị trường lao động khổ sai vào năm 2005, và con số bán lao động khổ
sai ra thị trường thế giới cứ mỗi năm mỗi tăng. Vào
năm 2008, Cộng Sản Hà Nội đạt được thoả hiệp với Qatar, nâng tổng số lao động
khổ sai bán qua vùng Vịnh từ 10 ngàn lên đến 100 ngàn cho đến hết năm 2010,
gấp mười lần con số của những năm trước
Cấu Trúc hệ thống buôn bán con
người của Cộng Sản Hà Nội:
Tất cả các công ty quốc doanh tuyển nhân
công để bán ra nước ngoài cho thị trường lao động khổ sai đều là một bộ phận
trong một hệ thống buôn bán con người rất chặt chẽ tinh vi của Cộng đảng- liên
quan đến nhiều viên chức cao cấp trong đảng, hệ thống ngân hàng.
Các nạn nhân nghèo trước hết bị lừa khi ký các hợp đồng
láo gọi là “hợp đồng nội” hay hợp đồng trong xứ, có nhiều hứa hẹn ba xạo về điều
kiện việc làm tốt đẹp. Sau đó, các nạn nhân nghèo phải mượn nợ từ các nhà băng
ngân hàng quốc doanh cũng của đảng để trả các khoản phí giấy tờ, tiền giấy máy
bay, tiền đào tạo. Nếu không đủ kinh phí, bậc phụ huynh phải bán luôn điền sản
nhỏ nhoi của mình để cho con cái có đủ kinh phí nộp đơn đi lao động khổ sai.
Sau khi đã nộp không biết bao nhiêu thứ phí không bồi
hoàn cho đúng thủ tục của “hợp đồng nội,” các nạn nhân trước ngày đi một hay
hai ngày mới bắt đầu ký hợp đồng nội khác, hoàn tòan lật lộng với những gì
trong “hợp đồng nội” ban đầu- nhưng các nạn nhân đã hết cách vì chi ra quá nhiều
tiền, lún sâu trong nợ rồi nên đành phóng lao thì phải theo lao; ký bừa đồng ý
cho xong mà thôi.
Khi đến được nơi lao động khổ sai ở xứ người, các nạn
nhân lúc bấy giờ bị lấy hết giấy tờ, buộc phải ký hợp đồng thứ nhì gọi là “hợp
đồng ngoại” mà không có nạn nhân nào có thể từ chối cũng như hiểu là mình đang
ký thỏa thuận điều gì trong bản hợp đồng ngoại này. Từ đó, cuộc đời của các nạn
nhân lao vào tăm tối – làm việc lao lực khổ sai hơn 10 tiếng mỗi ngày trong điều
kiện độc hại, với lương bổng vô cùng thấp và không có sự chăm sóc y tế. Có nhiều
nạn nhân không được trả lương trong khi vẫn phải trả nợ cho công ty môi giới
tuyển người tại Việt Nam khi mượn nợ làm thủ tục. Cuối cùng, các nạn nhân đi đến
chỗ suy yếu bệnh tật, không thể có tiền để quay về xứ sở, cũng như trả nợ - và
nhà cửa của gia đình thì bị siết. Thảm cánh bần cùng thê thảm không thể tả.
Các tòa đại sứ của Cộng Sản thì trơ như đá không
giúp đỡ gì cho các nạn nhân. Cộng Sản Hà Nội cũng vờ vịt
ban hành đạo luật chống buôn người, xử án một vài vụ hời hợt cho lấy lệ để lừa
qua mặt sự giám sát của Liên Hiệp Quốc hay Hoa Kỳ hoặc qua mặt các quốc gia trợ
giúp chống buôn người, cho thấy rằng đảng ta cũng có quan tâm. Tất cả sự
láo lừa đó chỉ nhằm che đậy chính sách buôn bán con người của đảng đang ngày được
đẩy mạnh, đem đến một nguồn lợi nhuận khổng lồ cho các đảng viên, từ công khai
lẫn hối lộ lén lút.
Ngoài ra, có ai biết rằng tại Việt Nam hiện nay, tố
cáo tham nhũng là phạm pháp hay không?
Michel
Benge
Nguyễn Trọng Dân lược
dịch