„Hòa vào dòng người vượt biên chạy trốn khỏi chế độ là một cuộc
tháo chạy khác từ những quan chức từng cai trị và gián tiếp xua đuổi họ khỏi đất
nước Việt Nam.“
Những cuộc trốn
chạy trong thời bình
Cát Linh (RFA)
Một chiếc tàu của người Việt được cứu trên
vùng biển Đông ngày 5 tháng 1 năm 2005. Ảnh minh họa. AFP photo
Hàng loạt các quan chức cấp cao của Việt
Nam lợi dụng hình thức đi nước ngoài khám bệnh hoặc đi du học để rời khỏi Việt
Nam ngay
sau khi có quyết định truy tố trước pháp luật do những sai phạm trong quá trình
làm việc. Sự việc này cùng với những phiên toà vừa diễn
ra cũng ở Việt Nam để xét xử nhóm người vượt biên sang Úc và New Zealand nhưng
bị chính phủ bắt giữ và trả về nói lên điều gì trong xã hội Việt Nam hiện tại?
Cuộc di dân thứ ba?
Lịch sử Việt Nam ghi dấu hai cuộc di tản được cho là
vĩ đại nhất chưa từng có trong lịch sử thế giới: Cuộc tản cư 1954 kéo dài gần 3
tháng sau ngày ký Hiệp định Geneva chia cắt hai miền Nam, Bắc; và cuộc di tản
diễn ra từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 kéo dài cho đến hơn mười năm sau đó.
Bài viết của tác giả Vũ Cao Đàm trên trang Bauxite
Việt Nam vào ngày 22 tháng 4 năm 2015 cho rằng “cuộc di tản sau 1975
thường được nói đến sau khi chế độ Việt Nam Cộng Hoà sụp đổ.” Và cũng chính
tác giả này đã đưa ra nhận định: “Theo tôi, đó chỉ là điểm khởi đầu cho cuộc
di dân thứ ba. Cuộc di dân này đang còn tiếp diễn cho đến ngày hôm nay và chưa
có dấu hiệu chấm dứt.”
Những diễn biến trong nước trong năm nay có thể xem
như là minh chứng cho nhận định trên của tác giả Vũ Cao Đàm.
Cuộc trốn chạy mưu cầu hạnh
phúc
Toà án La Gi, tỉnh Bình Thuận vào tháng 5 năm 2016
đã xét xử vụ án 46 người, trong đó có cả trẻ em mà cháu nhỏ nhất là 4 tuổi, vào
đầu tháng 7 năm 2015 đã dùng thuyền để vượt biên đến Australia nhằm tìm qui chế
tỵ nạn. Thế nhưng tàu của họ bị hải quân Australia chặn bắt ngoài biển và sau
đó bị đưa về Việt Nam. Cho dù thủ phủ Canberra có được cam kết từ Hà Nội sẽ
không trả thù những người ra đi, thế nhưng cuối cùng toà án tỉnh Bình Thuận vẫn
tuyên án tù bốn người trong số họ.
Bốn người bị kết tội tổ chức vượt biên tại
phiên sơ thẩm, TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu hôm 13/12/2016 Photo courtesy of
plo.vn
Một phiên toà khác diễn ra vào ngày 13 tháng 12 vừa
qua ở toà án tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, tuyên án nhóm người dùng thuyền đưa người vượt
biên đến New Zealand nhưng bị lực lượng chức năng Australia bắt và trả về Việt
Nam vào tháng 6 năm 2016. Hai trong số bốn bị cáo với tội danh “vượt biên” này
bị kết án tù giam và hai người còn lại hưởng án treo.
Luật sư Võ An Đôn, người nhận bào chữa miễn phí cho
bị cáo của cả hai phiên toà cho biết lý do những người này phải chọn con đường
mà cách đây hơn 40 năm, hàng ngàn người Việt Nam đã phải chọn, đó là họ mong muốn
có việc làm và cuộc sống tốt hơn.
“Với tư cách là luật sư bào chữa cho những
người vượt biên thì tôi cũng rất thông cảm cho hoàn cảnh của họ. Bởi vì người
ta chỉ mong muốn điều tốt cho gia đình và bản thân của người ta. Mong muốn có
việc làm, có thu nhập, con cái được học hành tốt hơn cho cuộc sống tốt hơn.
nhưng hiện tại thì ở xã hội Việt Nam không đáp ứng được nhu cầu đó nên người ta
tìm cách vượt biên sang các nước khác có điều kiện tốt hơn. Đó là một nhu cầu của
con người thôi.”
Cái nhu cầu được mưu cầu hạnh phúc tưởng chừng như rất
cơ bản này, hơn 40 năm trước, hàng ngàn người Việt Nam phải đi tìm bằng cách ít
nhất 1 lần bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, “khấn nguyện mười phương tám hướng” (Nguyễn
Đình Toàn), xin được đổi lấy bằng chính mạng sống của họ.
Bà Trần Thị Thanh Loan, bị cáo trong phiên toà tỉnh
Bình Thuận tháng 5 vừa qua bày tỏ nguyên nhân mà bà cùng chồng và 4 người con
trong đó đứa nhỏ nhất mới 4 tuổi, phải tìm cách vượt biển là vì khó khăn trong
cuộc sống:
“Lúc đó tụi em hoàn cảnh khó khăn, nhà cửa
không có. Trước đó làm lên cái nhà thì bị bên cưỡng chế người ta đập phá hết rồi,
rồi làm ăn cũng khó khăn nữa. Em thấy vậy thì em đi lúc đó cũng không suy nghĩ
gì nữa.”
Bà Trần Thị Lụa, cũng là bị cáo trong phiên toà đó
cho biết:
“Ở đây khổ quá thì mới đi. Làm ở đây khổ
quá không đủ để nuôi con, sống không có đủ cho nên muốn qua làm có đồng tiền, đời
sống con cái khác hẳn ở Việt Nam.”
Những cuộc vượt biên với mục đích nhằm tìm đến cái
nhu cầu cơ bản của con người ấy đều thất bại. Tất cả những người vì đời sống tốt
đẹp hơn cho thế hệ con cháu đời sau đều trở thành bị cáo của những phiên toà diễn
ra nơi chính mảnh đất họ dứt áo ra đi vì không còn hy vọng tìm thấy hạnh phúc.
Ở cuộc di dân thứ 3 họ phải chịu những bản án tù
giam.
Cuộc tháo chạy sau khi bị cáo
buộc tội
Hoà vào dòng người vượt biên chạy trốn khỏi
chế độ là một cuộc tháo chạy khác từ những quan chức từng cai trị và gián tiếp
xua đuổi họ khỏi đất nước Việt Nam.
Đó là cuộc tháo chạy của Trịnh Xuân Thanh, nguyên phó chủ tịch tỉnh Hậu Giang, nguyên Chủ tịch
hội đồng quảng trị Tổng công ty cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam; củaVũ Đình Duy, nguyên Tổng giám đốc công
ty Cổ phần Hoá dầu và Xơ sợi dầu khí; của Lê
Chung Dũng, nguyên Phó Tổng Giám đốc công ty điện lực dầu khí Việt Nam. Đây
là những quan chức cấp cao từng nắm giữ quyền và trách nhiệm đối với sự phát
triển kinh tế của đất nước.
Tập đoàn dầu khí Việt Nam, nơi đã có hai
cán bộ bỏ trốn khi bị cáo buộc tội tham nhũng. Photo courtesy of pvn.vn
Tại phiên chất vấn quốc hội ngày 16 tháng 11 vừa
qua, đại biểu Ngô Văn Minh đặt câu hỏi với Bộ trưởng Bộ Nội vụ về vấn đề của Trịnh
Xuân Thanh, bị cáo buộc làm trái các nguyên tắc gây hậu quả nặng nề, “Đề
nghị cho biết có bao nhiêu cán bộ luân chuyển theo đường ‘tiểu ngạch’ như Trịnh
Xuân Thanh?”
Sự việc của Trịnh Xuân Thanh là diễn biến được Giáo
sư Đoàn Viết Hoạt, người từng ngồi tù ở Việt Nam hơn 20 năm, từ Washington D.C
cho là “mở đường” cho những cuộc chạy trốn bằng hình thức ra nước ngoài chữa bệnh
hoặc du học hoặc…mất tích.
Ông cho chúng tôi biết, việc bỏ chạy của cả quan chức
lẫn người dân trong thời đại này là báo động một chế độ không thể tồn tại lâu
dài được. Nói về những cuộc “di dân” trong thế kỷ 20 này, ông nhận xét có một
điểm chung:
“Nó nói lên thực trạng của đất nước sau
hơn nửa thế kỷ nằm dưới sự cai trị của chế độ cộng sản. Đó là đất nước đã vào
tình trạng mà người dân không tìm thấy tự do và hạnh phúc ngay trên đất nước của
mình, họ chỉ có thể tìm thấy tự do và hạnh phúc ở ngoài đất nước Việt Nam. Đó
là tình trạng bi thảm và tình trạng đó không thể nào tiếp tục tồn tại được.”
Không chỉ riêng người dân ở mọi thành phần, mà cả những
diễn biến đang xảy ra trong bộ máy nhà nước Việt Nam cho thấy ngay cả những người
quan chức trong ban lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản vẫn không cảm thấy yên.
“Vấn đề là cơ chế đó đã tạo ra sự rạn nứt
và sự rạn nứt đó, để được an toàn và tự do thì họ không còn có thể ở trong nước
được nữa. điều đó không xảy ra cách đây 30 năm hay 20 năm đối với cán bộ và Đảng
viên cao cấp của Đảng Cộng sản.
Cái đất nước đã đến cái giai đoạn mà cả
những người cầm quyền lẫn người dân đã không còn có thể yên ổn ở trong nước được.
Vì thế tôi nghĩ là nó có tính chất tương đối giống nhau là vậy.”
Sự khác biệt
Cùng mang hình thức giống nhau là trốn chạy khỏi đất
nước, thế nhưng tính chất của hai hình thức này hoàn toàn khác nhau.
Giáo sư Đoàn Viết Hoạt nhận định:
“Có khác nhau. Một bên là do tham nhũng
hối lộ, một bên là do vì thiếu sự tự do hạnh phúc.”
Quan chức tháo chạy khỏi đất nước vì lý
do bị cáo buộc tội tham nhũng hối lộ. Người dân trốn chạy khỏi đất nước vì
không tìm thấy tự do hạnh phúc và cuộc sống tốt đẹp.
Người Việt ra đi, bị bắt, bị giam hãm trở lại từ nơi
phát xuất. Riêng nhóm người đang được chính quyền Việt Nam cho là tội phạm bỏ
chạy khỏi nước rồi phải trả lời ra sao khi có người hỏi họ về lý do khiến phải
rời bỏ quê cha đất tổ?