„Trên thế giới hiện nay, có lẽ cũng chỉ có Việt Nam và Trung cộng
là ghi áp đặt quyền cai trị của một Đảng cầm quyền vào hiến pháp. Người dân Việt
Nam đã chiến đấu và hy sinh cho nền độc lập, đổi lại là một sự cai trị áp đặt của
Đảng cộng sản. Hơn 40 năm qua, họ chẳng có cơ hội lựa chọn nào khác. Đây là một
trong những bi kịch lịch sử cay đắng nhất của người Việt.
…
Những căn bệnh trầm kha mà Trung cộng và Việt Nam đang mắc phải gần
như giống hệt nhau. Một bộ máy tha hoá tham nhũng đến tận gốc rễ với hiệu năng
cai trị ngày càng suy giảm. Các nguồn tài nguyên cạn kiệt và môi trường bị tàn
phá nặng nề đến mức mất khả năng duy trì cuộc sống thông thường. Tình trạng bất
công lan tràn với nạn lạm dụng quyền lực của bộ máy cai trị đã bị lưu manh hoá.
Gánh nặng nợ công đè ngập cổ người dân cộng với mức thuế phí nặng nề trong khi
các dịch vụ an sinh xã hội vô cùng tồi tệ.“
Đảng cộng sản Việt Nam, ngã ba đường lịch sử: Tồn tại và diệt vong?
Các
ông tổ cộng sản Karl Marx, Angels, Lenin, Stalin được so sánh với nhà lãnh đạo
độc tài phát xít Hitler. Nguồn: internet
(Phần
một)
Phong trào cộng sản toàn cầu, được khởi xướng từ những
nhà tư tưởng thủy tổ là Marx và Engels, cho đến khi được nhào nặn thành một nhà
nước thực tế bởi một người có tư duy thực dụng là Lenin, đã trải qua một thời kỳ
dài với những phép thử liên tiếp về mặt tư tưởng. Hầu hết những lý luận cốt lõi
của lý thuyết cộng sản đều khá mù mờ, với nền tảng là một xã hội ảo tưởng dựa
trên khao khát và hiện nay thì đã bị phủ nhận hoàn toàn.
Trong khi đó, con đường mà những đệ tử của Marx tìm
cách đến với xã hội chỉ có trong mơ đó thì lại đầy rẫy sai lầm. Kết quả của những
phép thử về mặt tư tưởng này là một thế giới bị cày xới bởi những biến động xã
hội sâu sắc. Có nhiều triệu sinh mạng đã phải trả giá trong những cuộc chiến đẫm
máu, nhiều quốc gia chìm vào vài chục thập niên trong bóng tối để đến lúc nhận
ra thì đất nước đã phải trả giá nặng nề và họ lại phải bắt đầu lại từ vạch xuất
phát, trong khi phần còn lại của thế giới đã có những bước tiến quá xa trong lộ
trình hướng tới văn minh.
Thời hoàng kim của những lý thuyết cộng sản
là những năm 1960. Khi đó người ta thống kê được trên dưới
100 quốc gia áp dụng theo hoặc mô phỏng theo các mô hình tổ chức xã hội mang sắc
thái cộng sản. Sự đào thải của thực tế là một phép thử rất đắt giá. Ngày nay chỉ còn năm quốc gia tự nhận là hậu duệ của những
nhà cách mạng cộng sản, gồm Trung cộng, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Lào và CuBa.
Toàn bộ các chế độ cộng sản còn lại đều đã bị lịch sử đào thải.
Với 5 chế độ cộng sản còn đang thoi thóp, họ cũng chẳng
còn chút bóng dáng nào của những mô hình xã hội mà họ tuyên bố kế thừa. Cốt lõi lý luận của họ đều đã bị chính
họ đào thải về mặt thực tiễn, phần còn lại chỉ là một xã hội lai căng quái đản
giữa thể chế cai trị độc tài và nền kinh tế thị trường vay mượn từ các nước
phương tây. Trong năm quốc gia đó, Trung
cộng đạt được những bước tiến rất mạnh mẽ trong khoảng 45 năm qua và hiện được
coi là cường quốc số hai thế giới. Việt Nam có những cải cách vay mượn học theo
ở một trình độ thấp hơn và lọt tốp các quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp,
trong khi đó, Bắc Triều Tiên thoái lui trở lại thành một xã hội phong kiến, hai
quốc gia kế chót còn lại thì đang ngấp nghé bởi những trào lưu hứa hẹn sự tan
rã của các chính thể độc tài.
Sự phát triển của Trung cộng thường được các tay
tuyên huấn cộng sản tuyên truyền như một khởi đầu mới của các lý thuyết cộng sản.
Trên thực tế, chính bản thân những nhà lãnh đạo cao nhất của Trung cộng cũng hiểu
rất rõ họ đang đối mặt với sự sụp đổ từ bên trong, và thời gian tồn tại của nền
cái trị độc tài cộng sản ở quốc gia này là một chiếc đồng hồ đếm ngược. Sự lai căng quái đản giữa mô hình cái trị độc tài và nền
kinh tế thị trường ở Trung cộng và Việt Nam đã tạo ra những vấn nạn mà các chế
độ này không thể tự giải quyết được. Toàn bộ nền tảng lý luận của họ đã
bị thực tế phủ nhận và lộ rõ tính ảo tưởng, những đảng viên từ cấp thấp nhất đến
cấp cao nhất lâm vào sự khủng hoảng khi không còn lý tưởng soi đường. Trong khi
đó, quyền lực độc tài và những món lợi kinh tế được tạo ra từ sự cấu kết giữa
quyền lực chính trị và các hoạt động kinh tế tư bản rừng rú đã khiến bộ máy cai
trị của họ tha hoá nhanh chóng đến tận gốc rễ. Trên thực
tế, tất cả các đảng viên từ cấp thấp nhất đến cấp cao nhất tại Trung cộng và Việt
Nam đều không sống bằng những nguồn thu nhập công khai, họ vơ vét tiền và làm
giàu nhanh chóng từ những lợi thế quyền lực và thông tin mà chế độ ban phát cho
họ.
Bằng cách vay nợ và đánh đổi các giá trị môi trường, Trung cộng đạt
được nhiều thành tích kinh tế ngắn hạn, nhưng đi kèm với nó là sự tha hoá của
toàn bộ đội ngũ cầm quyền. Tập Cận Bình
khá thực lòng khi phát biểu công khai trong một hội nghị cấp cao của Đảng Cộng
Sản Trung cộng vào năm 2012: “Chúng ta đang phải dựa vào một đội ngũ tội phạm để cai trị đất
nước”
Hầu như không còn ai tại Trung cộng và Việt Nam còn
tin rằng chế độ cai trị có thể trường tồn. Câu cửa miệng của các quan chức Trung
cộng khi gửi vợ con và các tài sản vơ vét được ra nước ngoài là: “Cũng chẳng còn được lâu nữa đâu”. Trên
thực tế các xã hội như Trung cộng và Việt Nam từ lâu đã biến thành những xã hội
phân biệt đẳng cấp sâu sắc. Nếu có những thống kê thực
tế về tài sản của các Đảng viên Đảng cộng sản cỡ trung cao cấp và toàn bộ phần
còn lại của đất nước thì chắc chắn rằng hầu hết các tài sản và nguồn lực kinh tế
của những quốc gia này đều nằm dưới sự chi phối, sở hữu và thao túng của các hậu
duệ cộng sản. Khởi nguồn từ những cuộc đấu tranh giai cấp, nhưng hiện
nay chính họ lại là một giai cấp mới, sở hữu hầu kết các nguồn lực kinh tế và sở
hữu tuyệt đối về quyền lực chính trị. Tất nhiên, kiểu tồn tại của họ sẽ không
thể lâu dài, vì tự thân nó là nguyên nhân của sự diệt vong. Vậy nhưng các nhà
nước cộng sản tại Trung cộng và Việt Nam vẫn đang tồn tại và cố tìm mọi cách
níu kéo quyền lực của mình.
Bằng cách tận diệt tài nguyên và đánh đổi các giá trị
môi trường, Trung cộng tạo được nhiều thành tích ấn tượng về phát triển kinh tế
ngắn hạn. Đây được coi là thứ bùa thiêng để các nhà tuyên huấn của Đảng Cộng Sản
Trung cộng tuyên truyền nhằm duy trì tính chính danh của mình. Tuy nhiên, đó là
sự phát triển không có ngày mai vì đó là sự vay mượn tận diệt từ tương lai để đốt
hết cho hiện tại. Trong lúc các vấn nạn về tham nhũng, tha hoá, bất bình đẳng
và sự kìm kẹp xã hội đến nghẹt thở càng lúc càng nặng nề. Ở chiều ngược lại là
một nền tảng dân chúng ngày một khao khát tự do. Một điều gần giống như thế
cũng diễn ra ở Việt Nam, tuy nhiên chế độ cộng sản ở Việt Nam kém thành công
hơn trong việc tạo ra các thành tích kinh tế ngắn hạn (điều không may) và đồng
thời cũng kém thành công hơn trong việc bóp nghẹt sự giao lưu về các lý tưởng tự
do (điều may mắn). Giữa hai chế độ độc tài cộng sản có
thể coi là còn hùng mạnh này, Việt Nam có nhiều cơ sở để tạo ra sự đổi thay
nhanh hơn Trung cộng.
Mặc dù biết chắc phía trước là vực thẳm, nhưng đội
ngũ lãnh đạo chóp bu ở cả Trung cộng lẫn Việt Nam đều tin rằng họ có thể trì
hoãn được thời gian. Những nỗ lực của họ không phải để hướng tới tương lai mà
là để kéo dài cái chết. Điểm kết cuối cùng là những tay cộng sản nặng túi sẽ
tìm cách đào thoát khỏi con tàu sắp đắm. Còn những gì diễn ra sau lưng thì có lẽ
đúng với câu ngạn ngữ cổ xưa: “Khi trẫm
đã thôi trị vì thì dẫu có nạn hồng thủy trên vương quốc cũng mặc”. Có những
cách thức để họ có thể thay đổi và trì hoãn ngày tàn, và đó cũng chính là thứ
mà các tay lý luận cộng sản cố gắng tìm kiếm. Bài viết này sẽ bàn đến những
cách thức đó.
Các
ông tổ cộng sản Liên Xô. Ảnh: internet
(Phần
2)
Những người cộng sản ở hầu hết các nước đều giành được
quyền cai trị theo những cách thức giống hệt nhau. Bằng những khẩu hiệu tuyên
truyền về một xã hội ảo tưởng, họ đặt trước mặt những người nghèo và thất học một
cái bánh vẽ và xúi họ vào lò lửa chiến tranh. Tuy nhiên cơn điên dại tập thể cuối
cùng cũng qua đi và hầu hết người dân nhận ra mình đã bị lừa vì không hề thấy sự
bình đẳng cũng như phồn thịnh ở đâu mà chỉ thấy những ông chủ mới. Cho đến khi
hàng loạt chế độ cộng sản sụp đổ vào cuối những năm 1980, nhân loại và chính
người dân các nước đó đã phải trả những cái giá quá mức nặng nề. Dẫu sao họ đã
gặp may vì cuối cùng cũng thoát khỏi một thứ quái vật ghê sợ trong lịch sử.
Tôi không phủ nhận rằng đã có những lớp người cộng sản
sống vì lý tưởng với niềm tin cuồng tín rằng mình duy nhất đúng. Họ sẵn sàng phạm
những tội ác không ghê tay để tiêu diệt và buộc những người khác phải nghe
mình. Giữa những người cộng sản cuồng tín thời kỳ đầu và những tay đao phủ của
nhà nước hồi giáo IS hiện nay có sự tương đồng giống hệt nhau: Khi cắt cổ người,
chúng đều cho rằng mình đang làm vì điều đúng.
Với thứ bùa thiêng về một xã hội ảo tưởng, nơi con
người có thể hưởng thụ theo nhu cầu bất chấp năng lực tạo ra của cải, những người
cộng sản thế hệ đầu đã rất thành công trong việc nhồi sọ và lôi kéo con người.
Họ đặc biệt thành công ở những xã hội đói nghèo với nền tảng dân trí thấp.
Nhưng có lẽ khả năng trại lính hoá xã hội, triệt hạ
tri thức độc lập mới là thứ vũ khí siêu hạng của những người cộng sản. Lenin
và những đệ tử của ông ta đã diệt không gớm tay những người Mensevich và
Trotsky, dù họ cùng là những đệ tử của Marx. Tất nhiên là bằng chuyên chính vô
sản, số phận của trí thức và những kẻ thù giai cấp còn lại thì cực kỳ thê thảm.
Mao Trạch Đông diệt hàng chục triệu người và tận diệt mọi tri thức đối lập cũng
như các đối thủ chính trị trong Đại Cách Mạng văn hoá. Ở Việt Nam, ông Hồ Chí
Minh cũng dìm chết mọi tư tưởng độc lập bằng cuộc thanh trừng nhân văn giai phẩm.
Họ hành động rất giống nhau dù quy mô khác biệt nhau và mục đích thì chỉ có một:
Tạo ra một xã hội tê liệt về tư duy và chỉ biết cúi đầu. Ở đây có lẽ nên có một
nhận xét công bằng, Hồ Chí Minh không tàn bạo như hai tiền bối của ông ta.
Trong hầu hết trường hợp, Hồ Chí Minh luôn tìm cách nấp phía sau giật dây và đẩy
thuộc cấp ra hứng chịu búa rìu (Trường Chinh với cải cách ruộng đất, Tố Hữu với
nhân văn giai phẩm).
Tuy nhiên những xã hội cộng sản đời đầu nhanh chóng
đối diện với thực tại mà họ không thể vượt qua. Do xuất phát từ một lý tưởng
sai lầm, họ thất bại trong việc tạo ra đủ của cải vật chất nuôi sống xã hội. Mục
tiêu về sự công bằng thì lại càng xa vời vì cách thức họ kiểm soát quyền lực độc
tài tự thân nó là gốc rễ tạo ra bất bình đẳng. Cuối năm 1980, sự tan rã của
hàng loạt nhà nước cộng sản đánh dấu sự cáo chung của phong trào cộng sản toàn
cầu.
Trong lúc đó, những người cộng
sản ở Trung cộng và Việt Nam loay hoay tìm cách thay đổi để kéo dài thời gian
cai trị. Họ thấy rằng có thể vay mượn nền kinh tế thị trường vốn có năng lực nổi
trội để tạo ra của cải ở phương Tây, và dựa vào đó làm bầu sữa nuôi sống cho bộ
máy cai trị độc tài của mình. Trung cộng tiến hành những cải cách cho
phép sự hiện diện của đầu tư nước ngoài và kinh tế tư nhân vào cuối những năm
1970. Việt nam nối gót chậm hơn, vào khoảng cuối những năm 1980. Cả hai chế độ
cộng sản này đều gặp may, vì các nước phương Tây sau khi chứng kiến sự tan rã của
hàng loạt nhà nước cộng sản đã cho rằng sớm muộn gì Trung cộng hay Việt Nam
cũng sẽ phải từ bỏ con đường bế tắc ấy. Vốn nước ngoài và công nghệ đổ vào những
đất nước này và tạo ra những nguồn lực mới. Trong khi đó việc giành được quyền
tồn tại cũng khiến các lực lượng tư nhân tham gia vào việc tạo ra của cải. Tuy
nhiên đây cũng là lúc đánh dấu sự tuyệt chủng của những người cộng sản cuối
cùng. Các lợi ích kinh tế được tạo ra cùng với quyền lực
độc tài không được kiểm soát đã khiến toàn bộ đội ngũ cai trị tại Trung cộng và
Việt Nam nhanh chóng thoái hóa và đánh mất chút niềm tin lý tưởng cuối cùng. Kết
quả là họ trở thành một tập đoàn tội phạm gắn kết với nhau bởi những khẩu
hiệu chẳng ai còn tin và các món lời được tạo ra từ bòn rút ngân sách, từ việc
lạm dụng quyền lực hoặc kiếm lợi từ lợi thế thông tin bất bình đẳng. Thực tế chế
độ cộng sản đã chết từ lâu ở cả Trung cộng lẫn Việt Nam, còn lại chỉ là một tập
đoàn cai trị độc tài tham nhũng dưới cái vỏ cộng sản.
Hai thứ bùa thiêng từng giúp những người cộng sản nắm
quyền là cái bánh vẽ về một xã hội bình đẳng thì nay đã chẳng còn lừa gạt được
ai khi chính họ đang là một đẳng cấp ưu tiên với mọi đặc quyền. Tuy nhiên, thứ
vũ khí siêu hạng còn lại là kiểm soát thông tin và tiêu diệt mọi trí thức có
năng lực tư duy độc lập thì họ vẫn đang làm rất tốt.
Trung cộng kiểm soát mạng xã hội cực kỳ ngặt nghèo
và thanh trừng khốc liệt mọi trí thức đối lập. Việt Nam cũng đàn áp và triệt hạ
không tiếc tay mọi trí thức phản biện với hàng loạt án tù. Bên cạnh đó, họ vẫn
tiếp tục cố gắng duy trì hoạt động tuyên truyền để có thể lừa gạt càng lâu càng
tốt những thành phần dân trí thấp nhằm kéo dài thời gian tồn tại. Tất nhiên đó
là những nỗ lực không có ngày mai vì theo thời gian, khi chứng kiến tình trạng
tham nhũng lan tràn, khi đối diện với sự tận diệt môi trường, những món nợ khổng
lồ mà những tay cộng sản tham nhũng mang về cho đất nước, sự tuyên truyền của bộ
máy cộng sản ngày một mất thiêng. Và cuộc cách mạng Internet đã bồi thêm những
đòn trí mạng vào bức màn sắt kiểm duyệt tư tưởng và tuyên truyền của những chế
độ cộng sản. Họ càng lúc càng mất khả năng kiểm duyệt và bóp nghẹt các luồng tư
tưởng tự do. Bên cạnh đó chính nền kinh tế thị trường mà họ vay mượn từ các xã
hội phát triển phương tây đã tạo ra sự hội nhập và giao lưu văn hoá mà họ không
thể chặn lại được. Vấn đề mà tất cả các lãnh tụ cộng sản
đều nhận ra: Không phải là có tồn tại được hay không mà là còn tồn tại được bao
lâu nữa?
Những căn bệnh trầm kha mà Trung cộng và Việt Nam
đang mắc phải gần như giống hệt nhau. Một bộ máy tha hoá tham nhũng đến tận gốc
rễ với hiệu năng cai trị ngày càng suy giảm. Các nguồn tài nguyên cạn kiệt và
môi trường bị tàn phá nặng nề đến mức mất khả năng duy trì cuộc sống thông thường.
Tình trạng bất công lan tràn với nạn lạm dụng quyền lực của bộ máy cai trị đã bị
lưu manh hoá. Gánh nặng nợ công đè ngập cổ người dân cộng với mức thuế phí nặng
nề trong khi các dịch vụ an sinh xã hội vô cùng tồi tệ.
Nhà lãnh đạo thuộc thế hệ thứ 5 của chế độ cộng sản Trung
cộng là Tập Cận Bình cố gắng tìm lối thoát bằng một cuộc đại thanh trừng với
chiến dịch đả hổ diệt ruồi, nhắm mục tiêu vào những đối thủ chính trị của ông
ta và những thành phần quan chức tham nhũng không nằm trong phe cánh của Tập.
Nhưng hơn ai hết Tập Cận Bình hiểu rất rõ rằng ông ta đang dựa vào một phe cánh
tham nhũng để triệt hạ phe cánh còn lại. Cái gọi là đấu tranh tham nhũng của Tập
Cận Bình tự thân nó thất bại ngay từ đầu khi không giải quyết được sự cai trị độc
tài: Quyền lực độc tài không được kiểm soát tự thân nó là mảnh đất màu mỡ cho
tham nhũng. Tập triệt hạ được một phe nhưng nếu Tập tước đoạt quyền lợi hoặc
chĩa mũi dùi vào phe cánh đang phò trợ ông ta thì khi đó cái gì sẽ bảo vệ được
Tập?
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng sau khi thanh trừng được
đối thủ chính trị lớn nhất của mình tại đại hội XII có vẻ cũng muốn thừa thắng
xông lên với một chiến dịch học theo Tập Cận Bình. Nền chính trị của Việt Nam
có độ tản quyền cao hơn và do đó dù có học theo thì Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng
chẳng diệt nổi muỗi, chưa nói gì đến ruồi hay hổ. Và mục đích chống tham nhũng
tự thân nó mâu thuẫn ngay từ đầu với nền chính trị độc tài.
Lá bài nguy hiểm nhất của Tập Cận Bình nhằm kéo dài
thời gian cai trị lại chẳng dính dáng gì đến bộ máy nhà nước hay các tư tưởng tự
do. Nó chính là chủ nghĩa dân tộc cực đoan mà nhiều thế hệ lãnh đạo Trung cộng
đã nối tiếp nhau vun xới như một giải pháp dự phòng cho các bất ổn xã hội.
Ảnh
minh họa. Nguồn: blog Châu Xuân Nguyễn.
(Phần
ba)
Chính sách dân tộc và chủ nghĩa bành trướng của Đảng
cộng sản Trung cộng hiện nay vừa là một nguy cơ sinh tồn nhưng cũng đồng thời
là bình tiếp oxy hà hơi cho Đảng Cộng Sản Việt Nam. Điều này thoạt nghe có vẻ
vô lý nhưng lại là sự thật.
Đất nước Trung cộng quá lớn, quá đông dân và quá phức
tạp. Trong nhiều thiên niên kỷ, người Trung cộng tồn tại bằng các cuộc chiến
tranh xâm lược nối tiếp nhau. Văn hoá của họ được xây dựng trên nền tảng của lối
tư duy nô dịch. Vì thế hầu như khó có thể có cơ may
nào cho Trung cộng chuyển hoá sang một thể chế dân chủ trong hoà bình trong ít
nhất 30 năm tới.
Những người cộng sản ở Trung cộng hiện nay đối diện
với nguy cơ bị tàn sát hàng loạt nếu họ để mất dây cương. Riêng cá nhân tôi cho
rằng nếu biến động xã hội xảy ra ở Trung cộng, nó sẽ khiến đất nước này bị chia
nhỏ làm nhiều phần. Đó sẽ là câu chuyện trong một tương lai xa. Với tư cách là
một đại cường, Đảng cộng sản Trung cộng có nhiều giải pháp để duy trì sự tồn tại
của mình hơn là Việt Nam. Nguy cơ Trung cộng tiến hành
các cuộc chiến tranh quy mô nhỏ trong khoảng 10 năm tới là rất cao, và nó
sẽ là một công cụ mà Đảng Cộng Sản Trung cộng vận dụng thường xuyên để đánh lạc
hướng và xoa dịu các bất ổn chính trị trong nước.
Có thể thấy rõ điều đó qua các phát ngôn ngày càng
kiên quyết của Tập Cận Bình về các vùng lãnh thổ tranh chấp. Đó không phải là vấn
đề quyền lợi quốc gia, nó giống một chiếc phao cứu sinh của Đảng Cộng Sản Trung
cộng trong bối cảnh ngày một mất dần tính chính danh trước xu thế thời đại. Chế độ cộng sản ở Trung cộng rồi sẽ kết thúc, nhưng nó sẽ
không chết một mình trước khi gây ra những tổn thương sâu sắc cho phần còn lại
của thế giới và cho chính người dân Trung cộng. Thế giới cần ý thức rất
rõ về điều này.
Là một nước có đường biên hàng ngàn km với Trung cộng
và có một mối quan hệ lịch sử phức tạp với dấu ấn nổi trội là chiến tranh, quan
hệ giữa hai chế độ cầm quyền hiện nay ở Trung cộng và Việt Nam rất phức tạp. Một
mặt, họ luôn giống nhau, trước đây là vì ý thức hệ cộng sản cổ điển, giờ đây là
sự tương đồng về mô hình cái trị tham nhũng độc tài. Điều đó khiến chế độ cộng
sản tại TH và Việt Nam luôn có nhu cầu tìm đến nhau trong bối cảnh thế giới coi
họ là những tồn tại khuyết tật của lịch sử. Mặt khác, do là những đại diện cầm
quyền tại hai quốc gia giáp giới với những lợi ích đối kháng nhau về lãnh thổ,
khiến hai chế độ cầm quyền này không thể không có những va chạm đôi khi đẫm
máu. Tôi muốn dừng lại một chút để nói về những cuộc chiến tranh giành độc lập của Việt Nam trong thế kỷ trước mà
Đảng Cộng Sản vẫn luôn dựa vào đó để đề cao tính chính danh của mình. Chính điều
này sẽ giải thích đầy đủ cho mối liên kết bất thường giữa chế độ cộng sản tại
Việt Nam và Trung cộng.
Là người truyền bá các học thuyết cộng sản vào Việt
Nam, nhưng ông Hồ Chí Minh chưa bao giờ là một người cộng sản đúng nghĩa. Tất cả
các trước tác ông ta để lại đều khó có thể nói ông Hồ am hiểu sâu các tư tưởng
của Marx và Engels. Tôi thậm chí tin rằng cả cuộc đời mình chưa bao giờ ông Hồ
đọc hết bộ Tư Bản Luận. Trong hồi ức được thuật lại, chính ông Hồ thừa nhận rằng
ông ta đến với chủ nghĩa cộng sản chỉ vì đọc được luận cương “Dân tộc và thuộc
địa” của Lenin, trong đó có đề cập đến việc xây dựng một liên minh cộng sản để
giải phóng giai cấp và giải phóng các nước thuộc địa. Chủ nghĩa yêu nước là thứ
đã thôi thúc ông Hồ, cho đến khi ông ta tiếp cận các lý thuyết cộng sản.
Việt Nam có một lịch sử lập quốc hơn 2000 năm, trải
qua vô số cuộc chiến tranh chống xâm lược. Chủ nghĩa yêu nước là một giá trị cốt
lõi luôn hiện diện trong huyết quản người Việt. Sự tồn tại của lòng yêu nước vốn
độc lập với các lý thuyết cộng sản. Những người lính đã chiến đấu ở miền Bắc và
cả những người lính đã chiến đấu để bảo vệ miền Nam, tôi tin rằng họ đều được
thôi thúc bởi lòng yêu nước, vốn được truyền đời qua nhiều thế hệ. Họ đứng ở
hai phía khác nhau vì những giá trị quan khác nhau và do sự chi phối của những
người cầm đầu. Cuộc chiến ấy miền Bắc đã thắng. Nguyên nhân đã được phân tích rất
kỹ càng bởi giới sử gia đông tây, tôi sẽ không lặp lại. Nếu có một nhận xét về
sự kiện thống nhất 30/04/1975, tôi có thể nói thế này: “Một xã hội văn minh hơn đã bị đè bẹp bởi một xã hội dã man hơn”.
Sức mạnh quân sự không phải lúc nào cũng đi kèm với
trình độ văn minh, ví dụ cho điều đó trong lịch sử đã có rất nhiều. Ví dụ như
cuộc xâm lược khắp Á Âu của đội quân du mục của Thành Cát Tư Hãn với những quốc
gia có trình độ văn minh tiên tiến hơn nhiều. Riêng với Việt Nam, 30 năm sau
ngày 30/04/1975, đất nước quay lại với những nền tảng căn bản mà người Việt Nam
đã làm được ở miền Nam trước năm 1975, một sự tụt lùi sâu sắc của lịch sử.
Có 4 triệu người đã chết trong cuộc chiến giành độc
lập và thống nhất ở Việt Nam. Hầu hết những người lính đã hy sinh ở Điện Biên
Phủ, ở Khe Sanh, ở Nam Lào và ở những cung rừng hẻo lánh Trường Sơn đều không
phải là đảng viên cộng sản. Họ chiến đấu thuần tuý vì lòng yêu nước. Thậm chí
ngay cả những người được kết nạp Đảng tại mặt trận lúc đó, họ cũng chẳng dính
dáng hay hiểu gì đến các tư tưởng cộng sản. Những người lính ấy đã chiến đấu và
chết vì một lý do duy nhất là lòng yêu nước. Chính ở đây là một sự nhập nhèm của
những người cộng sản. Lòng yêu nước đã làm nên chiến
thắng 30/04/1975 chứ không phải chủ nghĩa cộng sản. Và bản thân lòng yêu nước
thì đã luôn hiện diện ở Việt Nam trước, trong và sau khi những lý thuyết cộng sản
đến đất nước này.
Tôi tin chắc rằng dù có hay không những người cộng sản
ở Việt Nam thì đất nước cũng vẫn cứ giành được độc lập bằng cách này hay cách
khác, dù là theo lối chiến tranh hay hoà bình, vì người Việt sẽ luôn không ngừng
đòi hỏi nền độc lập. Trên thực tế, hầu hết các nước thuộc địa trên thế giới sau
này đều đạt được độc lập mà chỉ số ít phải dùng tới chiến tranh. Và vấn đề chính ở đây là những người cộng sản đã tìm cách đánh
đồng chủ nghĩa cộng sản (vốn là một thứ ngoại lai) với chủ nghĩa yêu nước (là
thhứ luôn sẵn có), và quy toàn bộ công lao giải phóng đất nước cho chủ thuyết của
họ.
Mượn sức mạnh của lòng yêu nước để đạt được quyền lực
và thiết lập được chế độ cai trị, nhưng Đảng cộng sản Việt Nam đánh cắp luôn
chiến thắng ấy bằng cách ghi quyền cai trị của họ vào hiến pháp. Xương máu và tổn
thất thuộc về toàn bộ người Việt Nam, nhưng thắng lợi thì chỉ thuộc về mình Đảng
Cộng Sản. Trên thế giới hiện nay, có lẽ cũng chỉ có Việt
Nam và Trung cộng là ghi áp đặt quyền cai trị của một Đảng cầm quyền vào hiến
pháp. Người dân Việt Nam đã chiến đấu và hy sinh cho nền độc lập, đổi lại
là một sự cai trị áp đặt của Đảng cộng sản. Hơn 40 năm qua, họ chẳng có cơ hội
lựa chọn nào khác. Đây là một trong những bi kịch lịch sử cay đắng nhất của người
Việt.
Tuy nhiên, chúng ta cần công bằng với lịch sử. Tôi
tin rằng ông Hồ Chí Minh và những người cộng sản đời đầu đều là những người yêu
nước. Chỉ có điều họ đã nhanh chóng đặt Đảng lên trên đất nước ngay khi giành
được chiến thắng. Và di sản mà họ để lại đã gây tai họa cho lịch sử đất nước
trong nhiều chục năm sau này.
Chế độ cầm quyền hiện nay kế thừa di sản của những
người cộng sản đời đầu. Họ hiểu rất rõ là người dân Việt Nam sẽ không chấp nhận
bất cứ một chế độ cai trị nào làm tổn hại độc lập hay chủ quyền quốc gia. Và
chính đây là lý do dẫn đến mối quan hệ rất phức tạp giữa Đảng cộng sản Việt Nam
và Đảng cộng sản Trung cộng. Một mặt thì Đảng cộng sản Việt Nam luôn có lý do để
xích gần Trung cộng, khi họ là những thứ tồn tại bị thế giới coi là dị dạng, họ
có nhu cầu xiết chặt tay nhau. Đó là lý do ông Nguyễn Văn Linh tìm cách bắt tay
với TC bằng mọi giá ở hội nghị Thành Đô, khi hàng loạt chế độ cộng sản trên thế
giới sụp đổ. Mặt khác, chế độ Việt Nam không thể không đối đầu với Trung cộng
khi chủ quyền quốc gia bị xâm phạm. Đây chính là lý do mà chủ quyền Việt Nam cứ
từng bước bị tổn thất bởi Trung cộng trong hơn 30 năm qua, khi bản thân Đảng cầm
quyền luôn bị giằng xé giữa việc xích gần kẻ xâm lược và sức ép bảo vệ chủ quyền
đến từ phía người dân.
Chủ nghĩa bành trướng hiện là một cứu cánh để kéo
dài thời gian cái trị của chế độ cộng sản Trung cộng, nó khiến chế độ cộng sản
Việt Nam đối mặt với nguy cơ lớn nếu để mất chủ quyền. Tuy nhiên cũng chính sức
ép này hiện là một trong những công cụ tuyên truyền của chế độ Việt Nam, theo
đó quyền cai trị của họ cần được giữ nguyên nếu không đất nước sẽ bất ổn và bị
thôn tính. Tôi sẽ quay trở lại câu chuyện về luận điệu tuyên truyền này ở phần
kế tiếp.
Đảng cộng sản Việt Nam,
ngã ba đường lịch sử (phần kết)
Hàng chục ngàn sinh viên Tiệp Khắc biểu
tình đòi đa đảng và chấm dứt chế độ Cộng sản, họ đã được sư hỗ trợ của phong
trào bất đồng chính kiến từ đó dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản vào
ngày 10 tháng 12, 1989 ở Tiệp Khắc. Ảnh: AFP
Trước khi viết những dòng cuối cùng trong loạt bài
này, tôi muốn chia sẻ với các bạn đôi điều. Trên thực tế đối tượng chính nhắm tới
của loạt bài viết này là những người cộng sản. Tôi muốn phân tích rõ thực trạng
của quá khứ và hiện tại để họ thấy rõ sự ảo tưởng của những người tiền bối của
họ và việc hiện nay họ đã bị tội phạm hoá và tha hoá ra sao. Đồng thời tôi cũng
muốn làm rõ cho họ một thực tế: “Chế độ
cai trị này không thể trường tồn”. Họ phải thừa nhận thực tế đó, để hoặc
cùng tham gia vào kiến tạo tương lai với phần còn lại của đất nước, khi đó họ sẽ
vẫn còn chỗ trong tương lai, hoặc họ cứ tiếp tục mù quáng tiếp tục đi trên con
đường tội phạm và sai lầm hiện tại.
Điểm kết cuối cùng sẽ là một cuộc chiến
tương tàn, ngoại bang sẽ xâm lấn chủ quyền và bản thân họ, với tư cách những kẻ
tội đồ mất khả năng cải tạo, chắc chắn sẽ bị tàn sát hàng loạt.
Tôi cũng không cho rằng những kẻ độc tài chóp bu có cơ hội chạy trốn ra nước
ngoài. Kadafi, Saddam Husein, sau những tội ác ghê rợn gieo rắc cho người dân,
dù đều sở hữu tới hàng chục và hàng trăm tỷ USD, nhưng đều bị tận diệt. Chế độ
cộng sản ở TC có lẽ sẽ tồn tại lâu hơn Việt Nam, nhưng tôi không hình dung ra
viễn cảnh các tay cộng sản chóp bu sẽ chạy trốn sang TC, vì khi đó họ chẳng qua
chỉ chạy sang một địa ngục khác mà sớm muộn cũng thành biển máu mà thôi.
Tuy nhiên trong quá trình sắp xếp tư duy cho loạt
bài viết này, tôi cũng mong rằng bất cứ ai khác cũng có thể tìm thấy ở đó những
kiến giải khác về những sự kiện lịch sử đã, đang diễn ra. Tất nhiên, quá khứ và
hiện tại sẽ là cơ sở để rọi đường cho tương lai. Qua những mất mát, cây đắng và
sai lầm, chúng ta sẽ biết đâu là con đường cần đi và điều gì người Việt Nam cần
hướng tới.
Tôi muốn làm rõ một thực tại cuối cùng trước khi đi
vào mạch tranh luận kế tiếp. Những người cộng sản thế hệ của ông Hồ Chí Minh,
khi tin vào lý thuyết cộng sản, bản chất là đã tin vào một con đường không có lối
ra. Lý thuyết của Marx về một xã hội công bằng tuyệt đối,
bản chất là một sự lừa bịp và ảo tưởng. Chừng nào loài người còn tồn tại thì sẽ
luôn có sự khác biệt giữa người với người. Sẽ có những người có năng lực
tạo ra của cải cao hơn, và do đó họ sẽ phải có quyền thụ hưởng cao hơn người
khác. Sẽ là cực kỳ vô đạo đức và cực kỳ đê tiện nếu người ta bắt những người
như Bill Gate hay Steve Job phải có mức thụ hưởng cào bằng như bất cứ ai, trong
khi đóng góp của họ cho văn minh nhân loại là vượt trội so với đại chúng. Nếu
ngay tại thời điểm này, toàn bộ của cải của thế giới được chia đều cho bất cứ
ai đang tồn tại trên trái đất, thì chỉ một giây sau, sẽ lại có sự chênh lệch giữa
người với người. Vì những người có năng lực sáng tạo và tài năng hơn, sẽ luôn tạo
ra được của cải nhiều hơn trên những gì họ có.
Một xã hội theo hình dung của Marx chỉ là
một xã hội ảo tưởng và hoàn toàn lừa phỉnh. Ngay cả việc những kẻ
cuồng tín cộng sản có nắm được quyền hành và chia đều tất cả của cải, thì ách
cai trị của chúng sẽ chỉ dẫn tới sự triệt tiêu sáng tạo của nhân loại: “Những người tài năng hơn sẽ lười đi vì họ
không thể cứ mãi làm cho người khác hưởng, còn những kẻ lười biếng sẽ càng lười
hơn vì chúng sẽ trong đợi người khác tạo ra của cải để chia cho mình”. Sự
thất bại của Liên Xô, Việt Nam và tất cả các nước cộng sản trong quá khứ trong
việc tạo ra các giá trị vật chất so với phương tây có căn nguyên gốc rễ chính từ
sự ảo tưởng và bịp bợm ngay từ đầu trong lý thuyết mà họ tôn sùng. Tôi có một
hình dung rất rõ ràng về tương lai nhân loại, đó sẽ là một xã hội văn minh,
khuyến khích sự sáng tạo của con người. Những người tài năng và chăm chỉ sẽ vẫn
luôn có sự thụ hưởng vượt trội đám đông. Ngược lại, các chính sách xã hội và
tái phân phối thu nhập sẽ điều tiết một cách nhân văn, để bất cứ công dân nào của
nó cũng có cơ hội có một mức sống tối thiểu, có cơ hội được học hành, được chăm
sóc y tế, bình đẳng trước luật pháp, và điều quan trọng nhất là họ sẽ có cơ hội
được vươn lên trong nhóm Top đầu, khi họ có tài và chăm chỉ. Hiện nay nhiều xã
hội phương Tây, đều đã ngấp nghé xây dựng được những cơ sở có thể nói là bền vững
cho một xã hội như vậy. Và chắc chắn đó không phải là thứ chủ nghĩa cộng sản ảo
tưởng, vốn đã gây bao tai họa cho nhân loại của Marx cũng như những đệ tử của
ông ta.
Quay lại Việt Nam,
tôi cho rằng những người cộng sản thuộc thế hệ đầu
tiên là những người yêu nước và có lý tưởng. Nhưng họ chính là một đám cuồng
tín luôn tin rằng mình duy nhất đúng và sẵn sàng tiêu diệt không thương tiếc những
ai khác ý kiến với mình. Về mặt này, họ không khác gì nhà nước hồi giáo
IS hiện nay, chúng phạm những tội ác không gớm tay nhưng vẫn luôn tin rằng mình
đúng. Tôi luôn kính trọng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông ấy là một danh tướng và
là một anh hùng dân tộc. Nhưng cũng chính ông Giáp là người đã tiến hành những
chiến dịch tàn sát thẳng tay với những người Quốc dân đảng vào năm 1946, khi họ
cũng có chân trong chính phủ lâm thời. Họ vốn là hậu duệ của anh hùng dân tộc
Nguyễn Thái Học và nhiều tiền bối khác, nhưng họ có niềm tin lý tưởng khác những
người cộng sản. Lịch sử sẽ ghi công ông Giáp với tư cách một anh hùng, nhưng
cũng chính niềm tin cuồng tín là thứ thúc đẩy ông ta phạm vào những tội ác ghê
gớm với chính đồng bào mình. Những vụ trấn nước, thủ tiêu, ám sát của những người
cộng sản cuồng tín giết hại một số lượng không nhỏ người Việt Nam, và phần lớn
trong số đó cũng chính là những người yêu nước. Một lý
tưởng sai lầm và sự cuồng tín mê muội chính là đặc trưng căn bản của những người
cộng sản thế hệ của ông Hồ Chí Minh. Họ để lại một di sản sai lầm và những kẻ hậu
duệ của họ biến đi sản ấy thành một thứ quái vật tiêu diệt mọi tiềm năng đất nước.
Khi những hậu duệ cộng sản ở Việt Nam lựa chọn nền
kinh tế thị trường và cố bấu víu nền cai trị độc tài, họ đã vi phạm mọi nguyên
tắc căn bản nhất để tạo ra một xã hội minh bạch, văn minh và công bằng về mặt
cơ hội phát triển cho con người (tôi muốn nhấn mạnh là công bằng về cơ hội phát
triển cho con người, chứ không phải công bằng về thụ hưởng). Bộ máy cai trị độc tài với quyền lực không được kiểm soát,
đã nhanh chóng biến tất cả những thành phần của Đảng cộng sản Việt Nam thành một
đẳng cấp ưu tiên. Sự kìm kẹp và tiêu diệt mọi tư tưởng độc lập của giới trí thức
đã tạo ra một xã hội cúi đầu. Chút lý tưởng của họ không còn vì thực tại
đã cho thấy lý tưởng của Marx chỉ là ảo tưởng. Khi một đám người không còn lý
tưởng và nắm quyền lực tuyệt đối trong tay, chúng nhanh chóng tha hoá và biến
thành tội phạm.
Hiện nay bộ máy của chế độ cộng sản Việt
Nam gồm hầu như toàn bộ là những kẻ tham nhũng, vô đạo đức cả về vật chất lẫn
quyền lực. Sự lưu manh hoá của họ lớn dần theo thời gian và gây ra những bức
xúc ngày một lớn trong xã hội. Mọi chủ trương, mọi định hướng, mọi chính
sách phát triển quốc gia đều chỉ đẹp trên khẩu hiệu và bị bộ máy tham nhũng bóp
méo thành những thứ đem lại lợi ích cá nhân. Các khoản đầu tư công, các chính
sách phát triển… hầu như mọi thứ đều trở thành nguồn tham nhũng của bộ máy công
quyền. Bộ máy ấy khiến hiệu suất vận hành của nhà nước càng ngày càng giảm,
càng ngày càng tệ hại và càng ngày càng khiến những nguồn lực của quốc gia bị
teo tóp, những cơ hội phát triển bị bỏ lỡ. Tất cả họ đều nhúng chàm, tất cả họ
đều là tội phạm. Và mức độ thì ngày một tệ hại hơn theo thời gian cho đến khi
nào quyền lực độc tài của họ bị tước bỏ.
Tôi muốn dành đôi lời để nói với những đảng viên cộng
sản còn có lương tâm: Liệu có ai trong các vị dám đặt tay lên ngực và thề với
lương tâm của mình, với tương lai con cháu mình, rằng các vị đang sống bằng nguồn
thu nhập sạch, chứ không phải là nguồn tiền phi pháp. Có lẽ cũng có những người
cộng sản, những công chức cấp thấp bị gạt bên lề guồng máy ăn chia và họ phải
bươn trải sống bằng những sinh kế khác có từ sức lao động của họ. Tuy nhiên số
đó nếu không muốn nói là ít thì sẽ là rất ít.
Sự tồn tại của chế độ độc tài tham nhũng ở
Việt Nam đang là thứ tạo ra hầu hết bất công và làm băng hoại đạo đức xã hội.
Thế hệ trẻ giờ đây lớn lên không còn có niềm tin, khi họ chứng kiến những kẻ nắm
vị trí cao trong xã hội lại là những kẻ vô đạo đức nhất. Chưa bao giờ đất nước
mất phương hướng và mất niềm tin như hiện nay. Sự tham nhũng và
bộ máy trì trệ đang tàn phá hầu hết nguồn lực và cơ hội phát triển quốc gia. Bộ
máy tham nhũng và vô đạo đức hiện nay không những cản trở xã hội đi lên, mà nó
còn tiếp tay cho cái xấu và gây ra tàn phá. Thảm họa Fomosa, có thể nói bản chất
của nó là sự cấu kết giữa đám quan chức tham nhũng với những nhà tư bản bất
lương. Ở những quốc gia mà thể chế minh bạch và phục vụ người dân, chắc chắn sẽ
không có cơ hội cho những kế hoạch đầu tuệ tàn phá quốc gia, và nếu có, nó cũng
sẽ bị chặn lại nhanh chóng và thủ phạm sẽ phải chịu sự trừng phạt nặng nề. Tôi
rất muốn hỏi ông Nguyễn Phú Trọng đã nghĩ gì khi đến thăm Formosa giữa lúc toàn
bộ biển miền Trung bị hủy diệt, và ông ta đã nghĩ gì khi sau đó ít tháng
Formosa chịu khoản phạt 500 tr USD, một số tiền quá nhỏ so với những hủy diệt
lâu dài mà họ gây ra đối với toàn bộ môi trường biển Việt Nam. Đây chỉ là một
câu hỏi nhỏ và tôi biết chắc nó sẽ không bao giờ được trả lời.
Cuộc cách mạng Internet hiện nay đã khiến
vòng kiểm tỏa của Đảng cộng sản về mặt thông tin hoàn toàn thất bại.
Họ đã cố gắng hạn chế và chặn lại mạng xã hội nhưng thất bại. Trong những nỗ lực
tuyệt vọng, họ thậm chí đã dùng tới giải pháp hạn chế băng thông giao lưu quốc
tế khi có những sự kiện nhạy cảm diễn ra. Thuật ngữ “Cá mập cắn cáp viễn thông quốc tế” là một thuật ngữ được sáng tạo
ra từ cơ quan kiểm duyệt tư tưởng của Đảng. Chế độ hiện nay không thể chặn được
việc giao lưu thương mại, đầu tư, văn hoá của Việt Nam với phần còn lại của thế
giới. Họ cũng không thể chặn lại sự giao lưu về tư tưởng và khao khát ngày một
lớn về tự do, về quyền con người và về quyền công bằng giữa người với người
trong việc có cơ hội giống nhau để vươn lên. Tôi rất buồn cười khi ông Nguyễn
Xuân Phúc khuyến khích những người trẻ Việt Nam khởi nghiệp, ông ta nói đến
Google, đến Facebook .. trong khi những điều đó được tạo nên trên nền tảng của
tự do ngôn luận, thứ mà chế độ ông ta phục vụ luôn tìm cách kiểm duyệt và bóp
chết. Tôi không rõ Zukerberg sẽ làm được cái gì nếu Mỹ là một nước kiểm soát về
tự do ngôn luận, chắc chắn là facebook sẽ bị bóp chết ngay từ những dòng code đầu
tiên.
Những người cộng sản hiện nay hiểu rất rõ họ là ai
và thực tại thế nào. Vì thế từ nhiều năm nay những khẩu hiệu minh bạch mà họ hô
hào hàng năm đều chỉ là những thứ sáo rỗng và loè bịp. Họ kê khai tài sản nhưng
chỉ kê cho riêng họ xem, cũng chỉ có trời mới biết lũ tội phạm ấy kê gì và dấu
của cải của chúng ở đâu. Họ hô hào chống tham nhũng chỉ để cho có, vì toàn bộ họ
đều nhúng chàm. Thỉnh thoảng có một kẻ kém may mắn bị loại bỏ giữa các màn đấu
đá phe cách và bị lôi ra làm thịt nhằm loè bịp người dân. Gần đây tôi có đọc một
phát ngôn báo chí của Bộ Tài Nguyên, theo đó bộ này 10 năm qua không có tham
nhũng, trong khi bất cứ ai cũng biết rõ một trong những cái ổ tham nhũng nhức
nhối nhất chính là các cơ quan công quyền quản lý đất đai. Sự vô đạo đức và
gian trá đã đạt đến đỉnh cao với những kẻ cộng sản độc tài hiện tại.
Nguồn lực của đất nước đang bị đánh cắp, cơ hội phát
triển của đất nước đang bị tiêu diệt, và chủ quyền của đất nước thì đang ngày
càng nguy ngập, vì với một bộ máy cai trị dễ dàng mua được bằng tiền, chúng sẽ
dễ dàng bán rẻ lợi ích quốc gia.
Tất cả những bất cập trên đều sẽ là những thứ khiến
chế độ cộng sản hiện nay rồi sẽ phải chấm dứt. Trong nhiều năm qua, đảng cộng sản
tuyên truyền về công lao của họ trong phát triển kinh tế quốc gia. Họ lờ đi thực
tế là tài nguyên đất nước, môi trường sống vốn là những của cải cần được sử dụng
dè xẻn và để lại cho đời sau thì nay đã bị họ đốt hầu hết cho hiện tại, mà phần
lớn trong số đó đã rơi vào túi những tay tham nhũng. Và số nợ mà chế độ này đã
vay thì đã vượt quá khả năng cân bằng của họ. Tất nhiên chế độ này khi kết thúc
sẽ không trả nợ, người trả chính là người dân Việt Nam. Và tình trạng nợ công của
Việt Nam đến nay đã cực kỳ nguy ngập. Từ năm 2016 trở về trước, người ta nói về
số liệu nợ công đã vượt ngưỡng trần tính trên tỷ lệ GDP và năng lực cân đối
dòng tiền của ngân sách. Từ lúc ông Nguyễn Xuân Phúc nắm quyền cho đến khoảng
tháng 9/2016, chính phủ của ông ta đã vay nợ ròng thêm trên dưới 8 tỷ USD. Cái
gọi là giới hạn hay trần an toàn giờ là thứ không còn ai nhắc tới. Trong vòng 5
năm tới, khả năng rất cao Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng vỡ nợ quốc gia, khi
chính phủ không thể trả nổi các khoản nợ đáo hạn. Tình trạng của Venezuela sẽ
là viễn cảnh của Việt Nam.
Tuy nhiên chế độ hiện nay có thể trì hoãn cái chết bằng
cách dựa dẫm vào nguồn tiền từ Trung cộng. Và chẳng có bữa trưa nào miễn phí
trên đời, đi kèm với đó sẽ là những cuộc mặc cả đen tối mà chủ quyền đất nước bị
bán rẻ. Tất nhiên, khi sự thật lộ ra thì đất nước này sẽ chìm vào một biển máu
mà sự phấn nộ của người dân sẽ tàn sát tất cả. Và trong tình huống nói loạn diễn
ra, đất nước này sẽ bị kéo lùi lịch sử trên dưới 20 năm.
Tôi muốn tránh cái viễn cảnh bi đát ấy và bất cứ người
Việt Nam nào cũng đều muốn tránh, tôi tin, bao gồm cả những người cộng sản. Đơn
giản là bất cứ ai cũng sợ chết, đặc biệt là những người giàu, trong khi đó các
hậu duệ cộng sản và gia đình họ thì đã quá giàu. Vì thế tôi kỳ vọng rằng những cuộc đối thoại sẽ đến để tránh một kết cục bi đát
cho tất cả. Chế độ rồi sẽ đi đến điểm kết, nhưng đó có thể là một điểm kết đau
đớn hoặc một sự chuyển biến sang văn minh trong hoà bình.
Người Myanmar đã làm được điều đó, khi chính phủ độc
tài của tổng thống Theinsein đứng về phe dân tộc. Họ cũng đã từng đi theo con đường
chủ nghĩa xã hội trong trên dưới 25 năm (1963 đến những năm 1980), họ cũng là
những kẻ độc tài bị thế giới cô lập và lệ thuộc nặng nề vào Trung cộng. Họ cũng
có hơn 1000 km đường biên giới với Trung cộng và có những phe nhóm lý khai gốc
Hoa đang cầm súng chống lại chính quyền. Nhưng với con đường hoà giải và hợp
tác, hiện nay họ đã đi trên đúng lộ trình để văn minh hoá đất nước. Con đường của
Myanmar không dễ đi, nhưng họ đã thoát được khỏi màn đêm.
Tôi muốn nói rằng, đó là một tấm gương cho chế độ cộng
sản Việt Nam. Họ có thể thay đổi để tiếp tục tồn tại như một lực lượng chính trị
giữ vai trò quan trọng trong một tương lai không hề ngắn. Họ có thể cải cách để
giữ lại quyền tồn tại của mình, và điều quan trọng nhất là điều đó sẽ mở ra
cánh cửa để Việt nam đi theo đúng lộ trình văn minh hoá quốc gia.
Tất nhiên những cải cách không phải có thể đến ngay
một sơms một chiều. Ngay từ lúc ngày, chế độ Việt Nam có thể tiến hành những bước
đi đầu tiên:
1. Nới lỏng kiểm duyệt báo chí và mạng xã
hội.
Đó là cách tốt nhất để góp phần giảm tham nhũng và minh bạch quốc gia. Nó cũng
là bước đi đầu tiên để cải thiện hình ảnh của chế độ trước mắt công chúng. Nới
lỏng kiểm duyệt không đồng nghĩa với việc những lời chỉ trích chính phủ sẽ tăng
lên, trái lại, xã hội sẽ ghi nhận và bước đầu ủng hộ khi chế độ đi trên đường
đúng.
2. Sa thải và tái bố trí việc làm cho ít
nhất 30% người hưởng lương ngân sách, chỉ có bằng cách đó mới
đảm bảo được việc cân đối giữa nguồn thu, nguồn trả nợ và các khoản đầu tư công
cần thiết phục vụ phát triển đất nước. Tăng thu nhập cho toàn bộ đội ngũ công
chức còn phục vụ, đảm bảo mức thu nhập của khu vực công về mặt chính thức là
ngang bằng hoặc tương ứng với 80% thu nhập của khu vực tư. Đây là cách duy nhất
để giúp chặn làn sóng ăn cắp và tham nhũng bắt buộc của những công chức có
thang bậc đãi ngộ thấp hiện nay.
3. Ban hành một đạo luật chống tham nhũng
mới, theo
đó ấn định một sắc lệnh ân xá cho tất cả các hành vi tham nhũng phát sinh trong
quá khứ, đồng thời đề ra những mức án cực nặng cho các vụ việc tham nhũng mới
phát sinh sau thời hạn ân xá.
4. Thành lập một cơ quan tư pháp mới, một
cơ quan điều tra mới hoàn toàn tách biệt với tất cả những cơ quan tư pháp và điều
tra hiện nay. Chọn lựa những người có đạo đức và lý tưởng phụng sự quốc gia vào
những cơ quan này và cấp cho họ chế độ đãi ngộ đặc biệt. Những cơ quan này được
trao quyền điều tra, truy tố và xét xử tất cả các vụ việc tham nhũng mới phát
sinh sau thời hạn ân xá được ấn định trong luật chống tham nhũng mới.
5. Bước đầu tách biệt toàn bộ hoạt động của
các cơ quan tư pháp khỏi bộ máy hành pháp.
6. Giải tán Mặt trận tổ quốc hiện tại,
thành lập một mặt trận toàn dân mới theo đó các đại diện được
lựa chọn thông qua bầu cử một cách công khai, minh bạch. Các đại biểu này sẽ
cùng thành lập một hội đồng soạn thảo hiến pháp mới.
Cần đề ra một lộ trình thay đổi hiến pháp, ấn định thời điểm chấp nhận việc
thành lập tự do chính đảng (có thể là một lộ trình 5 năm). Nội dung cơ bản nhất
của hiến pháp mới cần có những nhân tố căn bản của một xã hội văn minh, trong
đó yếu tố nền tảng phải được xây dựng xoay quanh quyền lập chính đảng và bầu cử
tự do. Để tránh các xung đột với chế độ hiện tại, có thể học theo đúng mô hình
Myanmar đang thực hiện: Chế độ cũ nắm quyền chỉ định 25% số ghế nghị viện không
cần bầu cử, và nắm quyền phủ quyết hiến pháp. Đây là một sự cải cách nửa vời,
nhưng nó là cách tốt nhất để bắc một cái cầu giữa hiện tại với tương lai, cho đến
khi đất nước đủ văn minh để có một bản hiến pháp thực sự tiến bộ.
7. Trên tất cả, cần thực sự cầu thị, cần
thực sự thiện chí vì đó là cách duy nhất giúp đất nước tránh khỏi vực thẳm
hoang tàn của bạo loạn và chiến tranh.
Sẽ chỉ có hai con đường với chế độ cộng sản hiện
nay: Hoặc tiếp tục cố níu kéo quyền lực, vay nợ mọi thứ, bán rẻ mọi thứ cho đến
ngày tàn dìm đất nước và chính chế độ này vào lò lửa chiến tranh, hoặc bắt đầu
thay đổi, để tạo cơ sở cho đất nước này hướng tới tương lai trong đó bao gồm
tương lai của chính đảng cộng sản.
Vài lời cuối cùng: Đây là những ý tưởng viết vội của
tôi trong vài ngày nghỉ, nó được gõ và post trực tiếp ngay trên trình duyệt.
Tôi biết nó sẽ vẫn có những khiếm khuyết và những hạn chế. Tôi mong rằng nó sẽ
được hoàn thiện hơn qua sự chia sẻ và góp ý của tất cả mọi người. Chúng ta cần
sự chia sẻ, chúng ra cần sự thiện chí và chúng ta cần sự khách quan. Bởi đó là
những thứ đất nước này đang rất thiếu.
Tôi dự kiến sẽ viết một loạt phân tích về các phong
trào đầu tranh cho tiến bộ xã hội ở Việt Nam kể từ năm 1975 trở lại đây, cả
trong nước lẫn hải ngoại, và trình bày những kiến giải của mình về những giải
pháp mà những công dân tiến bộ có thể làm để thúc đẩy lộ trình văn minh ở Việt
Nam. Tuy nhiên, có lẽ dự án này sẽ được gác lại cho đến khi tôi hệ thống được
tư duy về vấn đề này và tìm thấy thời gian rảnh.
Trân trọng.
Lang
Anh