Tin Tổng Hợp Liên Quan đến Biển Đông và Trung cộng (ngày 14.02.2017)
Trung
cộng đã bày tỏ lo ngại sau khi Nhật Bản tiếp tục ủng hộ Hoa Kỳ trong cuộc tranh
chấp với Bắc Kinh về các đảo ở Biển Hoa Đông trong cuộc họp giữa Tổng thống Hoa
Kỳ Donald Trump và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe.
Hôm thứ Hai, Bộ Ngoại giao Trung cộng đã bày tỏ lo
ngại sau khi Nhật Bản tiếp tục ủng hộ Hoa Kỳ trong cuộc tranh chấp với Bắc Kinh
về các đảo ở Biển Hoa Đông trong cuộc họp giữa Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump
và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe.
Thông cáo chung sau cuộc họp giữa Nhật và Mỹ tuyên bố
hai nhà lãnh đạo khẳng định Điều 5 của hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật có bao gồm các
đảo được gọi là Senkaku ở Nhật và Điếu Ngư ở Trung cộng.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung cộng Cảnh Sảng nói Trung
cộng “quan ngại sâu sắc và kiên quyết phản đối”, và nói thêm rằng các đảo trên
là lãnh thổ cố hữu của Trung cộng kể từ thời cổ đại.
Tại cuộc họp báo thường kỳ, phát ngôn viên Cảnh Sảng
nói:
“Dù bất kể ai
nói hoặc làm gì, điều đó cũng không thể thay đổi được thực tế là quần đảo Điếu
Ngư thuộc về Trung cộng, và không thể xoay chuyển được quyết tâm bảo vệ chủ
quyền và lãnh thổ quốc gia của Trung cộng”.
Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung cộng nói thêm
rằng Hoa Kỳ và Nhật Bản nên chú ý đến lời nói và việc làm, và ngừng đưa ra
những phát biểu sai trái để tránh làm phức tạp thêm tình hình và làm ảnh hưởng
đến hòa bình và ổn định trong khu vực.
Một Bộ Qui tắc Ứng xử tại Biển Đông là cần thiết
Hàng không mẫu hạm Liêu Ninh của Trung cộng
ở Thái Bình Dương hôm 11/1/2017. AFP photo
Một Bộ Qui tắc Ứng xử tại Biển Đông- COC sẽ có lợi
cho tất cả các bên đang tranh chấp lãnh hải tại khu vực này.
Giới chuyên gia Nhật Bản được mạng báo Nikkei trích
dẫn như vừa nêu vào ngày 13 tháng 2.
Theo giáo sư Takahara Akio chuyên về vấn đề quan hệ
quốc tế tại Đại học Tokyo thì hiện các quốc gia Đông Nam Á không mấy tin tưởng
vào Trung cộng trong việc tuân thủ các cam kết ký với nhau; thế nhưng vị giáo
sư này cho rằng nếu có một Bộ Qui tắc Ứng xử tại khu vực tranh chấp thì vẫn tốt
hơn. Ông bày tỏ hy vọng một thỏa thuận như thế sẽ có tác động nào đó.
Giáo sư Takahara Akio nhắc lại là Trung cộng luôn
nói thật hay; nhưng việc thực thi lại khác. Ông cho biết sau khi có phán quyết
của Tòa Trọng Tài Thường trực Quốc tế- PCA vào tháng 7 năm ngoái, Trung cộng có
thỏa thuận với các quốc gia Đông Nam Á là sẽ không xây thêm đảo nữa. Đó là điều
Bắc Kinh nói và ký; nhưng việc Trung cộng có thực thi điều đã ký, đã nói hay
không thì hiện không có nước Đông Nam Á nào tin cả.
Khi nói đến chính sách của tổng thống Rodrigo
Duterte đối với Trung cộng liên quan tranh chấp lãnh hải tại Biển Đông mà
Manila gọi là Biển Tây Phi Luật Tân, giáo sư Takahara Akio cho rằng như thế là
đi đúng hướng. Biện pháp tận dụng thế mạnh kinh tế đang lên của Trung cộng mà tổng
thống Duterte đang theo được giáo sư Takahara Akio đánh giá là đúng đắn; tuy
nhiên theo vị giáo sư này thì ông Duterte cần nói rõ cho Bắc Kinh là người dân Phi
luôn tôn trọng luật pháp quốc tế.
Giáo sư Takahara Aiko tin tưởng là tổng thống Phi Luật
Tân- Rodrigo Duterte cũng sẽ đóng góp vào công tác duy trì trật tự dựa trên căn
bản pháp luật tại khu vực tranh chấp Biển Đông. Như thế nếu như Bắc Kinh có
hành động gì thì người dân và tổng thống Phi Luật Tân sẽ nổ lực hết sức để ngăn
chặn hành vi của Trung cộng.
Trong khi đó một viên chức ngoại giao của Nhật Bản
không muốn nêu tên, cũng cho mạng báo Nikkei biết rằng dù Tokyo không trực tiếp
dính líu đến Biển Đông; nhưng khu vực tranh chấp lãnh hải là tuyến đường biển
mà tàu bè của Nhật cũng như nhiều nước khác đi qua. Như thế ổn định tại đó là rất
quan trọng giúp phát triển kinh tế.
Việc quân đội Trung cộng tiến hành xây dựng và bố
trí căn cứ, trong đó có những sân bay trên các đá Subi, Chữ Thập và Vành Khăn
đã tạo nên lo ngại.
Dẫu thế viên chức này thừa nhận sau khi có phán quyết
của Tòa Trọng Tài Thường Trực Quốc tế-PCA vào ngày 12 tháng 7 năm ngoái, hoạt động
của Trung cộng trong khu vực giảm đi. Bên cạnh đó, việc Manila nối lại quan hệ
ngoại giao với Bắc Kinh cơ bản làm cho hoạt động quân sự trở nên lắng dịu.
12 chiếc chiến đấu cơ tàng hình uy lực nhất của Mỹ đã được điều đến Úc
Tiêm kích tàng hình
F-22 của Mỹ
Úc có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng nhất là lãnh thổ phương Bắc. Mỹ đã điều 12 tiêm kích F-22 đến Úc, đó là 12 chiếc chiến đấu cơ tàng hình uy lực nhất của Mỹ nhằm đe Trung cộng. Những chiếc tiêm kích này hiện đã đến căn cứ Không quân Hoàng gia Úc ở Tindal thuộc lãnh thổ phương Bắc theo Thỏa thuận Tăng cường Phối hợp Không quân (EAC) giữa Washington và Canberra.
Úc có vị trí chiến lược vô cùng quan trọng nhất là lãnh thổ phương Bắc. Mỹ đã điều 12 tiêm kích F-22 đến Úc, đó là 12 chiếc chiến đấu cơ tàng hình uy lực nhất của Mỹ nhằm đe Trung cộng. Những chiếc tiêm kích này hiện đã đến căn cứ Không quân Hoàng gia Úc ở Tindal thuộc lãnh thổ phương Bắc theo Thỏa thuận Tăng cường Phối hợp Không quân (EAC) giữa Washington và Canberra.
Trong chuyến thăm Úc vào tháng 12, Đô đốc Mỹ Harry
Harris khẳng định việc quyết định gửi một phi đội F-22 Raptors tới rìa phía nam
của châu Á là nỗ lực nhằm đẩy lui ảnh hưởng của Trung cộng.
Ông Graham đánh giá rằng kế hoạch triển khai máy bay tiêm kích F-22 đến Úc là một bước đi rất có ý nghĩa. F-22 là tiêm kích hiện đại nhất của Không quân Mỹ, và hiện Washington vẫn áp đặt lệnh cấm xuất cảng loại máy bay chiến đấu này.
Lãnh thổ phương Bắc của Úc có vị trí địa chiến lược hết sức quan trọng đối với Mỹ vì đây là nơi tên lửa đạn đạo của Trung cộng không thể bắn tới và từ đây Mỹ có khả năng khai triển vũ khí lớn hơn so với bất kỳ địa điểm đồng minh nào khác của Mỹ.
Ông Graham đánh giá rằng kế hoạch triển khai máy bay tiêm kích F-22 đến Úc là một bước đi rất có ý nghĩa. F-22 là tiêm kích hiện đại nhất của Không quân Mỹ, và hiện Washington vẫn áp đặt lệnh cấm xuất cảng loại máy bay chiến đấu này.
Lãnh thổ phương Bắc của Úc có vị trí địa chiến lược hết sức quan trọng đối với Mỹ vì đây là nơi tên lửa đạn đạo của Trung cộng không thể bắn tới và từ đây Mỹ có khả năng khai triển vũ khí lớn hơn so với bất kỳ địa điểm đồng minh nào khác của Mỹ.
Hoa Kỳ dự trù hành động mới thách thức đòi hỏi chủ quyền của Trung
cộng trên Biển Đông
Hàng
không mẫu hạm USS Carl Vinson rời San Diego tiến về Biển Đông. (Hình: US
Navy/Getty Images)
Trang mạng Navy Times hôm qua, 12/02/2017, trích dẫn
nhiều viên chức cho biết là Hải quân Mỹ và Bộ Chỉ Huy lực lượng Thái Bình Dương
của Mỹ đang chuẩn bị những hoạt động mới để thách thức đòi hỏi chủ quyền của Trung
cộng ở Biển Đông, bằng cách điều thêm chiến hạm đến Biển Đông, gần các đảo nhân
tạo mà Trung cộng đang xây dựng.
Các chiến dịch bảo đảm tự do hàng hải, viết tắt là
FONOPS, sẽ do các tàu thuộc cụm tấn công của hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson
thực hiện. Đó là tàu tuần dương USS Lake Champlain CG-57 và hai khu trục hạm USS Wayne E. Meyer và USS Michael
Murphy. Đội tàu này hiện đang ở Thái Bình Dương và đang tiến về hướng Biển
Đông, theo lời 3 viên chức quốc phòng nói với Navy Times.
Theo Navy Times, kế hoạch của Hải quân Mỹ chắc là sẽ
đưa các chiến hạm xâm nhập khu vực 12 hải lý chung quanh các đảo nhân tạo của Trung
cộng ở Trường Sa và Hoàng Sa, một hành động mới thách thức những đòi hỏi chủ
quyền của Trung cộng ở Biển Đông, mà trong quá khứ đã từng gây căng thẳng giữa
Washington với Bắc Kinh.
Navy Times cho biết các kế hoạch nói trên sẽ được
chuyển theo từng cấp chỉ huy, lên tới tổng thống Donald Trump để phê chuẩn và sẽ
phần nào phản ánh chính sách của chính quyền Trump về Biển Đông.
Các tướng lãnh Hải Quân Mỹ tin rằng các chuyến tuần
tra tự do hải hành và phi hành trên Biển Đông sẽ giúp làm rõ thêm quyền sử dụng
các khu vực biển và không phận quốc tế, đồng giời, giúp gia tăng ảnh hưởng của
Mỹ ở khu vực.
Bonnie
Glaser, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế Mỹ. Ảnh: CSIS.
Trả lời Navy Times, chuyên gia Bonnie Glaser, thuộc
Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Chiến lược ( CSIS ) ở Washington, cho rằng “không
thể nào buộc được Trung cộng rút khỏi các đảo nhân tạo mới xây ở Trường Sa”.
Nhưng theo bà Glaser, Hoa Kỳ “có thể thi hành một chiến lược nhằm ngăn chận
Bắc Kinh bồi đắp thêm đảo và quân sự hóa, đồng thời ngăn chận Trung cộng sử dụng
những tiền đồn mới để dọa nạt hoặc cưỡng ép các nước láng giềng”.
Tin về các hành động quân sự “tự do hải hành và phi
hành” đang được chuẩn bị trong năm 2017 có vẻ trùng hợp với tin do báo chí Nhật
tiết lộ về các cuộc họp kín của tân Bộ Trưởng Quốc Phòng James Mattis của Mỹ
hai tuần trước trong chuyến công du Châu Á của ông. Tại Tokyo, ông cam đoan với
các giới chức Nhật rằng lực lượng Mỹ sẽ theo đuổi hướng cư xử mạnh bạo hơn với Trung
cộng trên Biển Đông.
Hiện người ta không biết đến bao giờ thì đội tàu đặc
nhiệm với hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson đến Biển Đông. Ngoài ra, còn có
hai khu trục hạm USS Wayne E. Meyer và USS Michael Murphy, và tuần dương hạm
USS Lake Champlain đi hộ tống hàng không mẫu hạm này.
Cuối Tháng Giêng, 2016, khu trục hạm USS Curtis
Wilbur đi vào bên trong phạm vi 12 hải lý của đảo Tri Tôn, đảo cực Nam quần đảo
Hoàng Sa (hiện bị Trung cộng chiếm đóng và Việt Nam vẫn tuyên bố chủ quyền).
Ngay sau đó, Bắc Kinh chuyển hai giàn hỏa tiễn phòng không tầm xa HQ-9 đến trấn
tại đảo Phú Lâm như một cách đe dọa.
Trung cộng: Từ siêu cường hàng hải đến đại cường hải quân
Ảnh minh họa : cảng
Djibouti.Nigel Pavitt/Getty Images
Tuần báo Pháp
Courrier International ngày 02/02/2017 đã đăng phóng sự điều tra của nhật báo
Anh Financial Times về chiến lược trở thành bá chủ trên biển của Trung cộng qua
hai bước : làm chủ về mặt kinh tế, thương mại rồi áp đặt quyền thống trị bằng Hải
Quân. RFI đã giới thiệu phần đầu của bài phóng sự nói về việc Trung cộng đã
thành công trong việc trở thành siêu cường thế giới về hàng hải. Phần hai hôm
nay sẽ đề cập đến cách thức Trung cộng biến ưu thế hàng hải thành sức mạnh quân
sự.
Như báo
Financial Times đã phân tích, ưu thế hàng hải của Trung cộng thể hiện rõ nhất
qua quyền kiểm soát hàng chục thương cảng lớn nhỏ trải rộng trên thế giới,
nhưng tại những vị trí chiến lược. Quyền kiểm soát các hải cảng này cho phép Trung
cộng dễ dàng dùng các cơ sở đó cho mục tiêu quân sự.
Chuyên gia Ấn Độ
Abhijit Singh, thuộc viện nghiên cứu Observer Research Foundation tại New Delhi
đã vạch trần ý đồ này khi thẩm định rằng những cơ sở mà Trung cộng thiết lập ở
các cảng nước ngoài, về hình thức thì nhằm mục tiêu dân sự, nhưng tất cả đều có
thể được điều chỉnh nhanh chóng để dùng vào mục tiêu quân sự.
Ngoài các cơ sở
có sẵn, Trung cộng đã không ngần ngại thiết lập các cơ sở mới, bồi đắp một loạt
đảo nhân tạo trên nền của các bãi đá và rạn san hô như ở Biển Đông. Theo nhật
báo Anh, các cơ sở này đóng một vai trò lớn trong chiến lược hải quân của Bắc
Kinh.
Tuy Trung cộng cố
giảm nhẹ tầm quan trọng các mục tiêu chiến lược này, nhưng ở Bắc Kinh, người ta
luôn nhấn mạnh trên sự cần thiết tăng cường an ninh trên biển.
Một bài viết năm
2015 trên một tờ báo thuộc Viện Hàn Lâm Khoa Học Trung cộng, còn tiến thêm một
bước khi kêu gọi Trung cộng « sử dụng tất cả những phương tiện ngoại giao, kinh
tế trong tay để thiết lập những điểm hậu cần tiếp liệu và căn cứ quân sự tại những
nơi có tính chất chiến lược, để bảo vệ những tuyến hàng hải chiến lược ».
Trong thực tế, những đề nghị này của giới khoa học đang được thực hiện. Các khoản đầu tư vào các cảng thường được biện minh bằng chiến lược « Một vành đai, một con đường », một đề án lớn mà ông Tập Cận Bình bảo vệ để làm sống lại những con đường thương mại thời xa xưa gọi là « Con đường tơ lụa », thúc đẩy đầu tư, trao đổi thương mại giữa hơn 60 quốc gia châu Á, Trung Đông, châu Phi và châu Âu.
Vị trí chiến lược ở Nam Á và Ấn Độ Dương
Trong chiến lược
này, Financial Times ghi nhận Trung cộng đã tăng cường hiện diện quân sự tại
Nam Á và Ấn Độ Dương qua những đề án cảng lúc đầu thuần thương mại.
Tờ báo nêu ví dụ
Cảng Gwadar ở Pakistan được mô tả như là một yếu tố then chốt của hành lang
kinh tế 54 tỷ đô la, nối liền Pakistan với Trung cộng.
Ban đầu cam kết
của Trung cộng chỉ giới hạn ở việc tài trợ và xây dựng cảng, nhưng vào năm
2015, Pakistan đã nhượng cảng lại cho một tập đoàn Trung cộng - China Overseas
Ports Holding Company - mà hợp đồng chỉ kết thúc vào 2059.
Trung cộng cho đến
nay luôn khẳng định rằng đó chỉ là một đề án thuần túy thương mại. Phát ngôn
viên bộ Ngoại Giao Trung cộng Hồng Lỗi còn nói rằng việc chuyển nhượng đó là một
« hoạt động thương mại » nhằm tạo điều kiện cho « hợp tác hữu nghị giữa hai nước
». Phía Pakistan, qua lời bộ trưởng Kế Hoạch Ahsan Iqbal, vào tháng 11/2016, trả
lời báo Financial Times, cũng nhấn mạnh rằng « sẽ không có sự hiện diện quân sự
Trung cộng » tại cảng Gwadar.
Nhưng một viên
chức ngoại giao Pakistan, đã giải thích : « Với
sự phát triển của Gwadar, việc các tàu Trung cộng qua lại, thương thuyền cũng
như tàu chiến, sẽ gia tăng trong khu vực. Dù không có dự án xây dựng một căn cứ
Hải Quân Trung cộng thường trực, nhưng quan hệ hai bên đang mở rộng qua lãnh vực
biển ».
Theo Financial
Times, kịch bản Gwadar đang được tái hiện ở một vùng đất xa hơn về phía Tây, tại
Djibouti, bên bờ một eo biển hẹp vùng Sừng Châu Phi.
Lúc đầu thì mối
quan tâm của Bắc Kinh ở đây có vẻ thuần túy thương mại với việc tập đoàn nhà nước
CMG - China Merchants Group, đầu tư vào cảng container của Djibouti năm 2012, mở
đường cho một khoản đầu tư lớn 9 tỷ đô la bao gồm việc xây dựng một bến cảng
cho tàu chở khí hóa lỏng, một bến cảng đón gia súc và một khu hậu cần.
Nhưng vào năm
ngoái, 2016, Trung cộng công khai thừa nhận là đầu tư ở Djibouti có một tầm vóc
mới, với việc xây dựng cảng Hải Quân đầu tiên của Trung cộng ở hải ngoại, cho
phép sự hiện diện quân sự của Trung cộng ít ra cho đến năm 2026, với một đạo
quân có thể lên đến 10.000 người. Trong khi đó thì truyền thông chính thức Trung
cộng vẫn gọi căn cứ hải quân này là « trung tâm hậu cần ».
Sức mạnh tài chính : Vũ khí uy hiếp
Theo các nhà
phân tích, thật ra rất khó cưỡng lại một Trung cộng nắm trong tay những phương
tiện tài chính hùng mạnh. Một ví dụ điển hình là Sri Lanka.
Sau khi lên nắm
quyền năm 2015, tổng thống Sri Lanka, Maithripala Sirisena, đã cố đình chỉ một
đề án xây dựng ở Colombo « một thành phố cảng » trị giá 1,4 tỷ đô la do các tập
đoàn Trung cộng đứng thầu.
Tổng thống Sirisena
đã rất bất bình trước ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung cộng, thấy rõ qua vụ một
tàu ngầm và một tàu chiến Trung cộng đã đột nhiên ghé cảng container ở Colombo
vào cuối năm 2014. Phần cảng này là do một tập đoàn nhà nước Trung cộng nắm giữ.
Theo ông Brahma
Chellaney, giáo sư về chiến lược ở Trung Tâm Nghiên Cứu Chính Trị Delhi, điều
trên đã chứng minh cho khả năng một đề án kinh tế có thể nhanh chóng biến thành
quân sự.
Sau khi tổng thống
Sirisena tỏ thái độ chống đối, Bắc Kinh đã lập tức gây sức ép, bắt bí bằng các
khoản nợ to lớn của Sri Lanka với các ngân hàng Trung cộng. Tháng 7 vừa qua,
ngoại trưởng Trung cộng Vương Nghị viếng thăm chính thức Sri Lanka, mang theo
thông điệp không khoan nhượng. Theo một viên chức Colombo xin giấu tên, ông
Vương Nghị đã nói thẳng : « Hoặc là chính
quyền Sirisena cố thúc đẩy đề án, hoặc là Trung cộng hoàn toàn bỏ rơi Sri Lanka
».
Vì nợ Trung cộng
8 tỷ đô la, chính phủ Sri Lanka đã phải lùi bước, và một tháng sau đã phải ký
thỏa thuận với tập đoàn cảng Trung cộng CHEC - China Harbour Engineering
Company - mở đường cho việc tiếp tục lại công trình sau 18 tháng gián đoạn.
Cũng trong khuôn
khổ vụ việc này, một tập đoàn khác của Trung cộng đã chiếm đa phần vốn của một
cảng khác, Hambantota, ở phía nam của Sri Lanka, với 1 tỷ đô la.
Điều đó đã cho
phép Trung cộng có thêm một cảng hiện đại ở vùng Ấn Độ Dương, với hạ tầng cơ sở
do một tập đoàn xây dựng Trung cộng đảm trách với tín dụng Trung cộng.
Những vùng khác
quanh Ấn Độ Dương cũng trở nên quan trọng trong cái nhìn của Trung cộng muốn thống
trị mặt biển : Theo một thỏa thuận quân sự song phương với Seychelles, tàu Trung
cộng có thể sử dụng cảng của Seychelles như địa bàn để tuần tra chống hải tặc.
Ở Maldives, chuyến
thăm của chủ tịch Trung cộng Tập Cận Bình năm 2014, đã chính thức đưa chuỗi đảo
nhỏ chỉ có 350.000 dân này, vào chương trình « Một vành đai, một con đường », với
những cam kết đầu tư vào hạ tầng cơ sở.
Châu Âu không ngoài tầm nhắm
Trung cộng đã không bỏ lỡ một dịp nào để mở rộng mạng
lưới cảng, nắm lấy cơ hội ở Hy Lạp, bị nợ nần chồng chất, thâu tóm cảng Pirée,
tăng cường hiện diện tại châu Âu.
Trung cộng đã đầu tư và nắm đa số phần vốn của một
trong những cảng lớn nhất châu Âu này vì hai mục tiêu : thương mại và chiến lược.
Khi thủ tướng Hy Lạp Alexis Tsipras tiếp đón vào đầu
năm 2015 các sĩ quan cao cấp của Hải Quân Trung cộng cùng một chiến hạm, các
phương tiện truyền thông Trung cộng cho là ông Tsipras ủng hộ việc bán cảng cho
công ty Trung cộng. Không đầy một năm sau, cảng được nhượng với giá 420 triệu
đô la.
Financial Times ghi nhận là quan chức Trung cộng lúc
đó rất phấn khởi vì nhớ lại việc chính quyền Bắc Kinh bị hoàn toàn bất ngờ và bị
động vào năm 2011 khi phải di tản 36.000 người lao động Trung cộng khỏi Libya
và đã phải nhờ đến thương thuyền Hy Lạp trợ giúp.
Một viên chức Trung cộng xin giấu tên đã nhận định :
« Nếu tình trạng đó tái diễn, thì chúng
tôi sẽ được chuẩn bị tốt hơn. Có thể sử dụng tàu chiến Trung cộng để di tản người
đến cảng Pirée của chúng tôi. »
Tổng hợp tin, bình luận RFA, RFI, VOA, BBC