Phan Văn Thanh
Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh
Có sông sâu lờ lững vờn quanh êm xuôi về
Nam …
Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau
Bóng tre ru bên mấy hàng cau đồng quê mơ
màng!
Năm ấy, đoàn hát Kim Chung lần đầu tiên có kế hoạch thực hiện bộ phim nhựa có tiếng nói (âm thanh). Để cho bộ phim thêm phần hấp dẫn, trang trọng và gây ấn tượng với công chúng trong buổi chiếu ra mắt, toàn bộ êkíp điều hành, bầu sô, đạo diễn … đồng ý việc tổ chức một cuộc thi sáng tác bài hát làm nền cho phim với giải thưởng lớn cho tác phẩm được chọn. Đây cũng là bộ phim nhựa có âm thanh đầu tiên của ngành điện ảnh Việt Nam vào thời ấy. (1952)
Cuộc thi được tổ chức rộng rãi trong công chúng,
không phân biệt tuổi tác, chuyên nghiệp hay nghiệp dư…đã có nhiều nhạc sĩ tên
tuổi cùng một số những người mới thành danh trong làng ca nhạc giải trí thời đó
tham gia. Đề tài sáng tác là quê hương và con người Việt Nam.
Sau nhiều lần chọn lựa rất công bằng và vô tư, ban
giám khảo đã mất khá nhiều thời gian bàn bạc, nhận xét rồi cân nhắc để đưa ra một
sự chọn lựa chính xác, dù biết đó là một quyết định rất khó khăn. Cuối cùng,
Ban tổ chức đã công bố, tác phẩm được chọn để trao giải là bài hát “Làng Tôi” của
một tác giả vô danh tiểu tốt, cái tên nghe chừng như rất xa lạ trong làng ca nhạc
Việt thời ấy đó chính là nhạc sĩ Chung Quân.
Bản nhạc Làng Tôi được chọn vì nó mang hơi thở của một
vùng quê yên bình, lời lẽ cũng mộc mạc, dung dị thấm đẫm tình cảm của người dân
Việt Nam, cho dù năm đó tác giả bài Làng Quê mới chỉ vừa 16 tuổi. Nhạc phẩm
Làng Quê và cái tên Chung Quân ra đời từ dạo ấy. Nhờ giai điệu du dương, thắm
thiết tình người tình quê của Làng Tôi cứ mãi bay xa mà cái tên nhạc sĩ Chung
Quân trở nên nổi tiếng và đi vào lòng người.
Nhiều nhạc sĩ tên tuổi và giới văn nghệ thời đó có
hơi ngỡ ngàng, nhưng mọi người đều công nhận bản nhạc “Làng Tôi” xứng đáng được
nhận giải thưởng vinh dự đó.
Quê tôi chìm chân trời mờ sương
Quê tôi là bao nguồn yêu thương
Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn
Là bao vấn vương tâm hồn … người bốn
phương.
Bản Làng tôi đã giành được giải của công ty điện ảnh,
đoàn cải lương Kim Chung ở Hà Nội để làm bản nhạc nền cho phim Kiếp Hoa.
Hành trình về phương Nam
Thế rồi, thế sự đổi thay theo mệnh nước nổi trôi.
Năm 1954, Chung Quân cùng gia đình di cư vào Nam, định cư ở vùng Khánh Hội. Nhờ
đã từng học sư phạm chuyên ngành về nhạc và danh tiếng của Làng Tôi, Chung Quân
được Bộ Quốc gia Giáo dục của Đệ Nhất Cộng Hòa ưu đãi, cho dạy môn nhạc tại hai
trường trung học Chu Văn An, và Nguyễn Trãi. Thời gian giảng dạy ở trường Nguyễn
Trãi, Chung Quân là thầy dạy nhạc của nhiều nhạc sĩ nổi tiếng sau này như Ngô
Thụy Miên, Vũ Thành An, Đức Huy, Nam Lộc… Cũng khoảng thời gian 1955 – 1956,
ông có soạn bản hợp xướng Sông Bến Hải, theo một vài ý kiến thì đó là một trường
ca có giá trị nghệ thuật, viết về cuộc di cư năm 1954, nhưng về sau không thấy
phổ biến rộng rãi.
Trường Nguyễn Trãi năm ấy có cậu học trò nghèo nên
buổi trưa thường không về nhà mà nghỉ lại ở trường cùng bữa ăn trưa là gói xôi
mà mẹ cậu đã mua cho cậu đem theo từ sáng sớm. Thay vì nghỉ trưa, cậu học trò lại
tha thẩn trong trường để rồi lắng nghe được câu chuyện tranh cãi giữa hai người
thầy.
Trong một căn phòng, tiếng của vị giáo sư Hà Đạo Hạnh
(cử nhân toán) đang ầm ĩ nói với nhạc sĩ Chung Quân
–
Trình độ học vấn của anh chỉ đáng là học trò của tôi thôi. Việc anh được dạy
chung với những giáo sư như chúng tôi là một vinh dự cho anh, anh có biết điều
đó không?
–
Nhưng thưa giáo sư, nếu hỏi công chúng có biết nhạc sĩ Chung Quân là ai không?
Thì chắc chắn nhiều người biết đó là tác giả của bản nhạc Làng Tôi. Còn như hỏi
họ, có biết giáo sư Hà Đạo Hạnh là ai không? Tôi tin người ta không mấy người
biết.
Câu chuyện đang đến hồi hấp dẫn, và cậu học trò cố
áp sát tai để chờ nghe tiếp xem Giáo sư Hà Đạo hạnh trả lời ra sao, bỗng từ
phía sau, một bàn tay lạnh lùng của thầy giám thị véo vào tai cậu học trò kéo
đi chỗ khác! Và vì thế mà câu chuyện đành dở dang ở đây.
Rồi thời gian trôi qua, tưởng mọi chuyện đã rơi vào
quên lãng. Nhưng không, nhạc sĩ Chung Quân đã không chịu bỏ qua dễ dàng như vậy,
ông nhất định phải đòi lại món nợ danh dự này. Không công danh thà nát vói cỏ
cây.
Nhạc sĩ Chung Quân sau đó đã quyết chí tiếp tục con
đường kinh sử, ông ghi danh theo học và hoàn thành tú tài toàn phần, sau đó,
ông lại tiếp tục việc học để đạt cho kỳ được mảnh bằng Đại học. Cuối cùng, ông
đã tốt nghiệp cử nhân văn chương tại Anh quốc.
Đã mang tiếng đứng trong trời
đất
Phải có danh gì với núi sông
Nhớ lại câu chuyện
ngày xưa, nhạc sĩ Chung Quân sao chép tất cả văn bằng mà mình có được gửi về
cho giáo sư Hà Đạo Hạnh kèm theo lời nhắc nhở rất nhẹ nhàng lịch sự.
Thưa giáo sư Hà
Đạo Hạnh, tất cả những gì mà giáo sư làm được thì Chung Quân tôi cũng đã làm được.
Còn những gì Chung Quân tôi làm được thì giáo sư đã không làm được.
Viết tới đây tôi
bỗng nhớ tới bài thơ của cụ Nguyễn Công Trứ có đoạn như sau:
Đã hẳn rằng ai nhục ai vinh
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị
ngộ
Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ
Quyết ra tay buồm lái với cuồng
phong
Chí những toan xẻ núi lấp
sông
Làm lên tiếng phi thường đâu
đấy tỏ …
Nhạc sĩ Chung
Quân đã đòi lại món nợ danh dự năm xưa một cách sòng phẳng bằng ý chí và lòng
kiến nhẫn của chính ông. Rất lịch sự, tế nhị mà cũng rất quân tử. Không ồn ào,
không gióng trống khua chiêng làm người khác phải ngượng ngùng, mất thể diện.
Quả thật, chẳng ai biết trước được chuyện gì xảy ra trong cuộc đời.
Cậu học trò nghe lén câu chuyện ngày xưa sau này
cũng theo cái nghề “gõ đầu trẻ”. Ông dạy Trung học đệ nhị cấp (cấp 3) ở miệt dưới
tận tỉnh Bạc Liêu. Ngoài công việc dạy học, ông còn làm thêm nghề tay trái là
viết báo, viết văn với bút hiệu Thái Phương. Sau biến cố 1975, ông nghỉ dạy và
chuyển hẳn sang viết báo. Hiện nay, độc giả biết nhiều đến ông với bút danh nhà
văn Đoàn Dự.
Đã có lần, nhà văn Đoàn Dự gặp lại thầy cũ là giáo
sư Hà Đạo Hạnh và ông có hỏi vị giáo sư:
–
Thưa Thầy, sao ngày đó thầy lại nặng lời với Nhạc sĩ Chung Quân thế ạ!
–
Hồi ấy tôi có hơi nóng nảy nên đã quá lời
Mọi
chuyện rồi cũng qua đi, người xưa giờ cũng đã trở về cùng cát bụi, nhưng câu
chuyện thì sẽ còn mãi như một bài học, một tấm gương về cách đối nhân xử thế của
người xưa vậy.
Phan Văn
Thanh
CHS Văn Đức
Lớp 12C Niên Khóa 1972 – 1975