„Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ như giọt nước mắt bi tráng của tuổi
trẻ Việt Nam ngày nào nhỏ xuống trên quê hương chiến tranh khốn khổ, đã bốc
thành hơi, tụ thành mây và sau bao năm vần vũ khắp góc bể chân trời đã trở về
quê hương qua ánh mắt của em, qua nụ cười của chị, qua tiếng hát của anh, hồn
nhiên và trong sáng.“
Nguyễn Ðức Quang, khi bài hát trở về
Trần
Trung Đạo
Nhạc sĩ Nguyễn Ðức
Quang (1944-27 Tháng Ba 2011).
Nếu phải xếp hạng những bài hát được sinh ra và lớn
lên cùng với thăng trầm của đất nước, với thao thức của thanh niên, sinh viên,
học sinh, với tâm trạng của những người lính trẻ trong cuộc chiến tranh tự vệ đầy
gian khổ ở miền Nam trước đây, tôi tin, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ của nhạc
sĩ du ca Nguyễn Ðức Quang sẽ là một trong những bài ca được xếp hàng đầu.
Không giống như một số hành khúc quen thuộc trong giới
trẻ trước 1975 như Dậy Mà Ði của Nguyễn Xuân Tân, Tổ Quốc Ơi Ta Ðã Nghe của
La Hữu Vang thiết tha, mạnh mẽ nhưng chỉ giới hạn trong các phong trào sinh
viên tranh đấu và ngay khi ra đời đã bị đảng sử dụng cho mục đích tuyên truyền
trong các trường đại học, các đô thị miền Nam, hay Việt Nam Việt Nam của Phạm
Duy chan chứa tình dân tộc, kêu gọi người người thương mến nhau nhưng thiếu đi
cái hùng khí, sôi nổi của tuổi trẻ, Việt Nam Quê Hương
Ngạo Nghễ của Nguyễn Ðức Quang
không dừng lại ở nỗi đau của đất nước mà còn nói lên cả những bi thương, công
phẫn, thách đố của tuổi trẻ Việt Nam trước những tàn phá của chiến tranh và
tham vọng của con người. Trong vườn hoa âm nhạc Việt Nam, Việt Nam Quê Hương Ngạo
Nghễ nổi bật lên như một biểu tượng cho khát vọng của một dân tộc đã vượt qua
bao nhiêu gian nan khốn khó để tồn tại và vươn lên cùng các dân tộc khác trên mặt
đất nầy.
Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn
Ðường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang
Lê sau bàn chân gông xiềng của thời xa xăm
Ðôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loang xoang.
Ðường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang
Lê sau bàn chân gông xiềng của thời xa xăm
Ðôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loang xoang.
Lời nhạc của Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ tương đối
khó nhớ nhưng nhờ cách sử dụng ngôn ngữ trẻ trung, mạnh mẽ, tượng thanh, tượng
hình như “tiếng cười ngạo nghễ,” “xích
kêu loang xoang,” “trên bàn chông hát cười đùa vang vang” hay “Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi”
đã làm cho Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ trở thành độc đáo, không giống như những
bài ca yêu nước khác với những ý tưởng quen thuộc và lời ca phần lớn là lập lại
nhau. Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đẹp tự nhiên như một đóa lan rừng, không
mang màu sắc chính trị, không nhằm cổ võ hay biện minh cho một chủ nghĩa nào,
không cơ quan nhà nước nào chỉ đạo thanh niên sinh viên học sinh phải hát và
bài hát cũng chẳng nhằm phục vụ lợi ích riêng của chính quyền, tôn giáo hay đảng
phái chính trị nào.
Trước 1975, từ thành phố đến thôn quê, từ
các trường trung học tỉnh lẻ đến đại học lớn như Huế, Sài Gòn, từ các phong
trào Hướng Ðạo, Du Ca đến các tổ chức trẻ của các tôn giáo như Thanh Niên Công
Giáo, Gia Ðình Phật Tử, từ các quân trường Ðà Lạt, Thủ Ðức, Quang Trung, Nha
Trang đến các tổ chức, đoàn thể xã hội từ thiện đều hát Việt Nam Quê Hương Ngạo
Nghễ.
Sau 1975, bài hát theo chân hàng trăm
ngàn sĩ quan và viên chức miền Nam đi vào tù. Nhiều hồi ký, bút ký
kể lại Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đã được hát lên, kín đáo hoặc cả công khai
,ở nhiều trại tù khắp ba miền đất nước. Trong tận cùng của đói khát, khổ nhục,
đớn đau, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đã hóa thành những hạt cơm trắng, hạt nếp
thơm nuôi sống tinh thần những người lính miền Nam sa cơ thất thế.
Những năm sau đó, bài hát, như tác giả của
nó và hàng triệu người Việt khác lên đường ra biển tìm tự do.Việt
Nam Quê Hương Ngạo Nghễ lại được hát lên giữa Thái Bình Dương giông bão, hát
lên ở các trại tị nạn Palawan, Paula Bidong, Panat Nikhom trong nỗi nhớ nhà,
hát lên ở Sungai Besi, White Head trong những ngày chống cưỡng bách hồi hương,
hát lên ở San Jose, Santa Ana, Boston, Paris, Oslo, Sydney trong những cuộc biểu
tình cho tự do dân chủ Việt Nam, hát lên ở các trại hè, trại họp bạn HướngÐạo,
các tổng hội sinh viên Việt Nam tại hải ngoại.
Nhạc sĩ Nguyễn Ðức Quang, trong buổi phỏng vấn dành
cho chương trình Tiếng Nói Trẻ đã kể lại câu chuyện ra đời của Việt Nam Quê
Hương Ngạo Nghễ trong âm nhạc Việt Nam:
“…Thế
bài Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ cũng vậy, nó không phải là một bài ca tôi nghĩ
là quá lớn, nhưng lúc bấy giờ khi tôi kết thúc tập Trường Ca vào năm 1965, cuối
1965 hay đầu 1966 gì đó, khoảng thời gian đó, 10 bài trường ca, những bài như Nỗi
Buồn Nhược Tiểu, Tiếng Rống Ðàn Bò, Lìa Nhau, Thảm Kịch Khó Nói v.v… những bài
nói về đất nước của mình rất là khổ sở, tôi nghĩ nên kết nó bằng một bài hát có
tiếng gọi hùng tráng và tha thiết hơn. Thành ra tôi viết bài Việt Nam Quê Hương
Ngạo Nghễ một cách rất là dễ dàng. Tất cả những ý đó tôi đem vào hết trong bài
hát đó để nó vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu
mà trở thành một nước to lớn, và lòng người cực kỳ dũng mãnh. Viết xong bài đó
tôi nghĩ chỉ kết thúc tập Trường Ca mà thôi, không ngờ về sau càng ngày đi các
nơi càng thấy nhiều người ưa thích bài đó, có lẽ đáp được ước vọng của nhiều
người, tôi nghĩ tiếng gọi đáp ứng đúng được tiếng của nhiều người, không riêng
gì giới trẻ đâu, cả người lớn tuổi ở các hội đoàn về sau này, rồi đi vào trong
quân đội, đi rất nhiều nơi. Thành ra, tôi cho đó là một bài hát tự nó trưởng
thành nhưng khi viết tôi chỉ đúc kết cho tập Trường Ca lúc đó mà thôi.”
Thật đơn giản và tự nhiên như thế. Không một ông bộ
trưởng Bộ Chiêu Hồi nào đặt hàng hay một ông tổng ủy trưởng Dân Vận nào chỉ thị
anh phải viết. Anh viết không phải để thi đua sáng tác hay mong mang về giải
thưởng, huân chương. Trong tâm hồn của một nghệ sĩ chân chính, tình yêu nước
bao giờ cũng là sự thôi thúc tự nguyện. Anh viết Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ để
kết thúc tập trường ca của riêng anh nhưng cũng nối tiếp tập trường ca lớn hơn
của đất nước.
Sau ba mươi năm, nhiều nhạc sĩ, ca sĩ đã trở về qua
nhiều ngã, trong nhiều tư cách khác nhau, một số tình ca sáng tác trước 1975 đã
được nghe lại trong nước, nhưng đây là lần đầu tiên một bài hát đã về lại quê
hương qua ngã của trái tim, trở về trong vòng tay nồng ấm của tuổi trẻ Việt
Nam.
Bất ngờ và cảm động, một buổi sáng tuần trước, khi
đi dạo một vòng qua các blog Việt ngữ, tôi bắt gặp không chỉ những mẩu tin nóng
viết vội vàng trên đường phố, những đoạn phim biểu tình vừa mới đưa lên
YouTube, những tấm hình ghi lại cảnh xô xát giữa đồng bào, sinh viên với công
an, nhưng còn được nghe lại bài hát quen thuộc Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ.
Tôi cảm nhận qua lần gặp gỡ đó một niềm vui chung khi có một bản nhạc mà các em
sinh viên Việt Nam ở California, Washington DC, Oslo, Paris, Hà Nội, Sài Gòn
cùng hăng say hát trong những cuộc biểu tình chống Trung cộng bành trướng bá
quyền mà không cảm thấy ngần ngại, nghi ngờ, xa cách.
Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người
Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi
Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi
Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian.
Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi
Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi
Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian.
Trong số một trăm em đang hát trong nước hôm nay có
thể hơn chín mươi em chưa hề nghe đến tên Nguyễn Ðức Quang lần nào, và nếu có
nghe, có đọc qua bộ máy tuyên truyền của đảng, cũng chỉ là một “nhạc sĩ ngụy đã
theo chân đế quốc.” Biết hay không biết, nghe hay không nghe không phải là điều
quan trọng. Ðiều quan trọng là bài hát đã đáp ứng được
ước vọng về tương lai và tình yêu tổ quốc của tuổi trẻ. Tổ quốc, vâng,
không có gì lớn hơn tổ quốc. Văn hóa không phải chỉ là đời sống của một dân tộc
mà còn là những gì giữ lại được sau những tàn phá, lãng quên. Việt Nam Quê
Hương Ngạo Nghễ sau 30 Tháng Tư 1975 hẳn đã nằm trong danh sách các tác phẩm
“văn hóa đồi trụy” mà Ðảng tìm mọi cách để xóa bỏ, tận diệt.
Thế nhưng, như giọt nước rỉ ra từ kẽ đá và như bông
hoa mọc giữa rừng gai, bài hát đã sống sót, đã ra đi và đã trở về. Ðể tồn tại,
một bài thơ, một bản nhạc cũng phải trải qua những gạn lọc, những cuộc bỏ phiếu
công bằng không chỉ của người nghe, người đọc dưới một chế độ chính trị nào đó
mà còn của cả lịch sử lâu dài. Bài hát phát xuất từ
tình yêu nước trong sáng như Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ sẽ ở lại
rất lâu trong lòng tuổi trẻ Việt Nam hôm nay và nhiều thế hệ mai sau.
Là một người thích tham gia các sinh hoạt văn nghệ cộng
đồng, bài hát mang tôi về thời trẻ tuổi của mình. Tôi còn nhớ, mùa Hè 1973, khi
còn là sinh viên năm thứ nhất, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ cũng là nhạc sinh
hoạt chính của trại hè sinh viên toàn quốc quy tụ đại diện sinh viên các trường
đại học và cả sinh viên du học về nghỉ hè, do Bộ Giáo Dục Và Thanh Niên tổ chức
lần đầu và có lẽ cũng là lần cuối tại trường Thiếu Sinh Quân, Vũng Tàu. Ðêm trước
ngày chia tay, chúng tôi không ai ngủ được. Ngày mai sẽ mỗi người mỗi ngả, chị
về Huế, anh về Ðà Lạt, em về Cần Thơ và đa số chúng tôi sẽ trở lại Sài Gòn.
Cùng một thế hệ chiến tranh như nhau, khi chia tay biết bao giờ còn gặp lại. Những
ngày tháng đó, cuộc chiến vẫn còn trong cao điểm.
Mỹ đã rút quân nên máu chảy trên ruộng đồng Việt Nam
chỉ còn là máu Việt Nam. Thảm cảnh của mùa Hè đỏ lửa chưa qua hết. Trên khắp miền
Nam, đâu đâu cũng có đánh nhau, đâu đâu cũng có người chạy giặc. Mơ ước của tuổi
trẻ chúng tôi là được thấy một ngày đất nước hòa bình, một ngày quê hương không
còn nghe tiếng súng.
Ðêm cuối trại hè, chúng tôi ngồi quây quần thành một
vòng tròn rộng quanh cột cờ trường Thiếu Sinh Quân và hát nhạc cộng đồng như để
vơi đi những vương vấn, lo âu đang trĩu nặng trong lòng. Bài hát được hát nhiều
nhất trong đêm đó là Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ, và khi điệp khúc cất lên
cũng là khi chúng tôi hát trong nước mắt:
Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại
Xương da thịt này cha ông miệt mài
Từng giờ qua cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi.
Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang
Trên bàn chông hát cười đùa vang vang
Còn Việt Nam triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng.
Xương da thịt này cha ông miệt mài
Từng giờ qua cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi.
Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang
Trên bàn chông hát cười đùa vang vang
Còn Việt Nam triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng.
Những giọt nước mắt của tuổi sinh viên nhỏ xuống xót
thương cho dân tộc mình. Tại sao có chiến tranh và tại sao chiến tranh đã xảy
ra trên đất nước chúng tôi mà không phải tại một quốc gia nào khác?
Mấy tháng sau, Tháng Giêng
năm 1974, bài hát Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ đã được hát vang trên đường phố
Huế, Ðà Nẵng, Sài Gòn, Cần Thơ sau khi Hoàng Sa rơi vào tay Trung cộng. Những
bản tin đánh đi từ Ðà Nẵng, danh sách những người hy sinh được đọc trên các đài
phát thanh làm rơi nước mắt. Và hôm nay, ba mươi ba năm sau, trong cái lạnh mùa
Ðông trên xứ người, những lời nhạc Việt Nam quê hương ngạo nghễ từ YouTube phát
ra như xoáy vào tim. Tôi lại nghĩ đến các anh, những người đã hy sinh ở Hoàng
Sa Tháng Giêng năm 1974, ở Trường Sa Tháng Ba năm 1988. Các anh khác nhau ở chiếc
áo nhưng cùng một mái tóc đen, một màu máu đỏ, một giống da vàng, cùng ăn hạt gạo
thơm, hạt muối mặn, cùng lớn lên bằng dòng sữa mẹ Việt Nam, và cùng chết dưới
bàn tay Hải Quân Trung cộng xâm lăng.
Việt Nam, sau ba mươi ba năm “độc lập, tự do” vẫn
chưa thoát ra khỏi số phận nhược tiểu bị xâm lược, vẫn chưa tháo được cái vòng
kim cô Trung cộng trên đầu. Việt Nam có một lãnh hải dài trên ba ngàn cây số
nhưng thực tế không còn có biển. Cả hành lang Ðông Hải rộng bao la từ Hải Nam đến
Hoàng Sa và xuống tận Trường Sa đã bị Trung cộng chiếm. Nếu vẽ một đường cung dọc
theo lãnh hải đó, ngư dân Việt Nam chỉ còn có thể đi câu cá ven bờ chứ không thể
đánh cá như ngư dân Trung Hoa, Nhật Bản, Thái Lan hay các quốc gia khác trong
vùng Biển Ðông. Phía sau tấm bảng in đậm “mười sáu chữ vàng” hữu nghị thắm thiết
giữa hai đảng Cộng Sản Việt Nam và Trung cộng là thân xác của ngư dân Việt Nam
trôi bềnh bồng dọc các hải đảo của tổ tiên mình để lại.
Trong suốt dòng lịch sử, họa xâm lăng từ phương Bắc
vẫn là mối đe dọa thường xuyên. Khác với các thời đại trước đây, cái bất hạnh của
Việt Nam ngày nay không phải chỉ là mất đất nhưng mất đất mà không đòi lại được
ngay. Cuộc kháng Nguyên lần thứ nhất trong hàng vương tước nhà Trần chỉ có mỗi
Trần Nhật Hiệu chủ trương “Nhập Tống” và lần thứ hai chỉ có Trần Ích Tắc và đám
hầu tước Trần Kiện, Trần Văn Lộng, Trần Tú Viên chủ trương “Hàng Nguyên” nhưng
ngày nay, về mặt lập trường quan điểm, Việt Nam có đến 14 Trần Ích Tắc và 160
Trần Kiện. Trận đụng độ giữa Việt Nam và Trung cộng diễn ra tại Trường Sa năm
1988 theo tác giả Daniel J. Dzurek
trong biên khảo “Xung Ðột Trường Sa: Ai
có mặt trước?” (The
Spratly Islands Dispute: Who’s on First?) chỉ kéo dài vỏn vẹn 28 phút và Việt
Nam chịu đựng hầu hết thương vong. Với một giới lãnh đạo tham quyền cố vị và sự
chênh lệch quá xa về kỹ thuật chiến tranh như thế, cuộc đấu tranh giành lại hai
quần đảo sẽ vô cùng khó khăn.
Dù sao, tuổi trẻ Việt Nam, khác với các thế hệ Tân
Trào, Pác Bó trước đây, thế hệ Hoàng Sa, Trường Sa ngày nay có nhiều cơ hội tiếp
xúc, học hỏi và so sánh giữa chế độ các em đang sống với các tư tưởng tự do dân
chủ, khoa học kỹ thuật tiên tiến; nhờ đó, hy vọng các em sẽ có những chọn lựa
đúng cho mình và cho đất nước phù hợp với dòng chảy của văn minh nhân loại.
Trong cuộc chiến Việt Nam dài mấy mươi năm đảng đã sản
xuất ra không biết bao nhiêu bài hát, bài thơ kích động lòng yêu nước nhưng tại
sao các em không đọc, không hát nữa? Như một độc giả trong nước đã trả lời, đơn
giản chỉ vì chúng nhạt nhẽo. Ý thức sâu sắc đó đã được thể hiện không chỉ trong
khẩu hiệu các em hô mà ngay cả trong những bài hát các em hát. Sau những “Như Có Bác Hồ Trong Ngày Vui Ðại Thắng,” “Dậy
Mà Ði,” “Nối Vòng Tay Lớn” của những ngày đầu phong trào, các bạn trẻ trong
nước đã đi tìm những nhạc phẩm nói lên lòng yêu nước trong sáng, tích cực,
không bị ô nhiễm, chưa từng bị lợi dụng và họ đã tìm được Việt Nam Quê Hương Ngạo
Nghễ.
Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng
Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm
Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân trời
Ôm vết thương rỉ máu ta cười dưới ánh mặt trời.
Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm
Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân trời
Ôm vết thương rỉ máu ta cười dưới ánh mặt trời.
Mỗi khi nhắc đến những khó khăn đất nước, chúng ta
thường nghe đến những“bất hạnh,” “nỗi đau,” “tính tự ti mặc cảm,” vâng đó là một
thực tế hôm nay, thế nhưng dân tộc Việt Nam “vốn xưng nền văn hiến đã lâu, nước
non bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác “như Nguyễn Trãi khẳng định,
không phải chỉ biết đau, biết tự ti mặc cảm mà thôi nhưng từ những nỗi đau đã
biết lớn lên bằng tự hào và kiêu hãnh làm người Việt Nam. Chỗ dựa tinh thần của tuổi trẻ Việt Nam hôm nay không có gì
khác hơn là lịch sử. Không thể làm nên lịch sử mà không cần học lịch sử.
Lịch sử sẽ là vũ khí, là hành trang trong hành trình tranh đấu cho một nước Việt
Nam mới, cũng như để xây dựng một Việt Nam tươi đẹp sau nầy.
Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người
Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam
Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian
Hỡi những ai gục xuống ngồi dậy hùng cường đi lên.
Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam
Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian
Hỡi những ai gục xuống ngồi dậy hùng cường đi lên.
Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ như giọt nước mắt bi
tráng của tuổi trẻ Việt Nam ngày nào nhỏ xuống trên quê hương chiến tranh khốn
khổ, đã bốc thành hơi, tụ thành mây và sau bao năm vần vũ khắp góc bể chân trời
đã trở về quê hương qua ánh mắt của em, qua nụ cười của chị, qua tiếng hát của
anh, hồn nhiên và trong sáng. Từ “vết thương rỉ máu” của một dân tộc đã từng bị
nhiều đế quốc thay phiên bóc lột, lợi dụng và hôm nay còn đang chịu đựng trong
áp bức của độc tài đảng trị, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ cất lên như một lời
khuyên, hãy sống và hãy vững tin vào lịch sử, sẽ có một ngày, sẽ có một ngày.