Không kể hàng triệu sinh mạng của các bên tham chiến cùng những thường
dân vô tội, cuộc chiến Việt Nam đã cướp đi sinh mạng của hàng trăm ký giả được
xem là những tinh hoa, tài giỏi nhất mà các hãng thông tấn phương Tây gởi sang
Việt Nam.
Những người săn đạn
Đinh
Yên Thảo
Ngày 28 Tháng Tư
1975. Ngược dòng với đoàn người thất thần trốn chạy cộng sản đổ về Sài Gòn, chiếc
xe La Dalat chở Michel Laurent thuộc
hãng thông tấn ảnh Pháp Gamma và Christian Hoche của tờ Le Figaro trực chỉ Quốc
Lộ. Họ thuộc trong số vài ký giả phương Tây còn nán lại để tường trình về những
ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam. Chiếc xe dân sự lọt vào ổ phục
kích của Việt Cộng tại Hố Nai và một loạt súng liên thanh dữ dội đã làm người phóng viên chiến trường tài ba và gan lì, từng đạt giải
Pulitzer khi còn làm với AP, trở thành người ký giả phương Tây cuối cùng bị tử
nạn tại Việt Nam.
Không kể
hàng triệu sinh mạng của các bên tham chiến cùng những thường dân vô tội, cuộc
chiến Việt Nam đã cướp đi sinh mạng của hàng trăm ký giả được xem là những tinh
hoa, tài giỏi nhất mà các hãng thông tấn phương Tây gởi sang Việt Nam. Họ không
được biết hay nhắc tới nhiều. Dù sự hy sinh của họ cũng xứng đáng một sự trân
trọng để tưởng niệm. Đọc hồi ký "Mẹ Việt Nam ơi! Dân ta có tội
tình gì" của ký giả Pierre Darcourt do cựu Đại Tá Dương Hiếu
Nghĩa dịch, ông điểm lại khá nhiều ký giả tài ba đã từng thiệt mạng trên mảnh đất
Việt Nam theo sau:
"Ngày
24 tháng 5, lúc 7 giờ sáng, 80 người ngoại quốc rời Miền Nam Việt Nam trên một
chiếc phi cơ 4 máy, Illouchine 18 sơn xanh trắng của Liên Xô. Đó là những phóng
viên nhiếp ảnh, những ký giả từ khắp nơi trên thế giới đã đến Sài Gòn và bị kẹt
lại sau khi thủ đô bị Bắc Việt chiếm cứ. Trong số nầy có gần 50 ký giả Pháp và
một tướng lãnh Pháp đã về hưu bị trục xuất khỏi Việt Nam vì lý do “hai bàn tay
của ông đã dính đầy máu của nhân dân Việt Nam”(!).
Trước
khi được đi, các ký giả nầy đã bị quá nhiều phiền nhiễu về hành chánh mới được
tờ chiếu khán xuất cảnh, sau đó phải nằm chờ đợi được ghi tên vào một chuyến
bay kéo dài ngày này qua ngày khác… Trước khi lên phi cơ, tất cả đều phải qua một
cuộc khám xét, một cuộc khám xét thật tỉ mỉ, thật lâu và rất là lạnh lùng. Các
tay bộ đội nhờ một nữ tiếp viên hàng không làm thông dịch viên, đã bóc hết hành
lý của họ. Có nhiều xấp thơ và phim ảnh bị tịch thu. Sau đó họ được đưa đến Vạn
Tượng (Lào) và phải trả 120 đô la bằng tiền Mỹ hẳn hòi (gấp đôi giá bình thường)
và được một chú “bộ đội” đội nón cối và các phi công Việt Nam đeo súng lục hộ tống.
Xuyên
qua cửa kính, các ký giả nhìn Tân Sơn Nhứt lần cuối. Hình ảnh sau cùng mà họ cố
mang theo từ Việt Nam là cảnh tượng của một phi trường bị tàn phá: nhà kho sập,
phi cơ nằm phơi bụng, chiến xa bị cháy đen… Trong số những anh gan lì và đầy
tình huynh đệ đi về Pháp chuyến nầy, vắng mặt một anh bạn rất thân: đó là anh
Michel Laurent, bị một tràng liên thanh bắn hạ trong trận chiến ở Hố Nai.
Anh là
một nhà báo cuối cùng chết ở Đông Dương. Chúng tôi vẫn còn hy vọng đến giây
phút cuối cùng là anh sẽ còn sống để trở về. Nhưng bây giờ thì hết mong rồi.
Chúng tôi không còn thấy bóng dáng mảnh khảnh, trẻ trung mãi của anh nữa, cũng
như gương mặt thiên thần với mớ tóc lòa xòa và một điếu xì gà cắn chặt ở môi.
Anh công tử có vẻ uể oải nhưng không lo lắng gì cả nầy thuộc nòi nhà nghề sáng
giá. Có cả thảy 52 nhà báo đã chết ở Việt Nam từ năm 1945. 26 anh khác đã coi
như mất tích ở Cam Bốt. Phần đông là các nhiếp ảnh viên, những tinh hoa trong
nghề… Họ không tường thuật về chiến tranh, mà họ chuyển chiến trận thành hình ảnh,
gay cấn, tàn bạo và lâm ly thống thiết. Những hình ảnh nầy các nhiếp ảnh viên
thường thu nhặt trong tư thế đứng chụp những người sắp chết và họ thường chứng
kiến được cử chỉ và cái nhìn lần cuối cùng của họ. Cho tới khi Thần Chết tức giận
vì bị người ta thu hình quá gần, nên đã bắt họ chết luôn vì đã đến lượt của họ
rồi… Và đùng một cái những người còn sống sót mới khám phá ra là luôn luôn những
anh bị tử thương y như rằng là những người rất giỏi trong nghề. Người đầu tiên
mà tôi thấy chết vào ngày 28 tháng chạp năm 1946 là một anh người Bỉ ốm yếu mà
tôi quá xấu hổ vì không nhớ được tên, làm việc cho một Thông tấn xã Hoa Kỳ. Anh
đến từ Nam Dương, một quốc gia chán chê vì chiến trận, nhưng những trận đánh
trong đường phố tuy lẻ tẻ nhưng hung dữ đến dã man trong thành phố Hà Nội đã
kích thích anh, như một cuộc đi săn kích thích con chó săn khỏe mạnh vậy. Anh đội
một nón sắt quá rộng, đeo choàng chiếc máy ảnh Rolleiflex và một cây súng lục
Webley to tướng ở ngang lưng. Anh ta rất là can đảm, can đảm hết nói! Anh ta chạy
trên các mái nhà để đi tìm những anh chàng bắn sẻ. Một tay Việt Minh bắn tỉa phục
kích đâu đó đã cho anh một phát vào giữa mặt và anh té lộn nhào rớt xuống đất từ
trên cao 10 thước.
Còn nhiều
người khác, rất nhiều người khác nữa như các anh Burrows, Huet, Shimimoto,
Flynn, Arpin…, và cuối cùng là anh Michel Laurent, mình trúng đầy đạn tại một
làng Công giáo di cư không đầy hai ngày trước khi Sài Gòn bị thất thủ. Từ anh
ký giả nhỏ con người Bỉ đội nón sắt quá rộng bị bắn chết ở thủ đô Hà Nội đến
anh Michel Laurent bị giết vì quá gan dạ tại gần một nhà thờ có treo cờ của Tòa
Thánh Vatican, nơi mà các nhân dân tự vệ kháng cự đến viên đạn cuối cùng, coi
như cuộc chiến ở Đông Dương đã qua rồi.
Các ký
giả bị kẹt lại gần ba tuần lễ ở Sài Gòn, cựu thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, sau
khi về đến Pháp đã viết lại và phổ biến tất cả những gì mà họ đã thấy và đã
nghe. Bộ máy của chế độ Hà Nội đã được áp đặt thế nào. Cảnh khốn cùng của dân
chúng Sài Gòn ra sao. Có những cô gái đã đề nghị trao hết gia tài sự nghiệp để
chỉ được cưới và cùng đi ra ngoại quốc vối họ. Trẻ em thì được van xin cho làm
con nuôi, dù là giả mạo. Lại còn dịch tự tử nữa. Rồi những tin đồn là có nhiều
sự nổi dậy ở các tỉnh, hay thành lập “chiến khu” ở Miền Nam…
Khi tất
cả các ký giả đã bị đưa đi hết rồi thì một cái lồng sắt chụp ngay xuống Miền
Nam Việt Nam. Muốn có được tin tức, người ta không còn có cách nào khác hơn là
phải nghe những bản tin chánh thức được loan đi sau khi bị kiểm duyệt cẩn thận.
Phải đợi cho có người đi du lịch trong thời gian sắp tới. Rồi phối kiểm lại tin
tức. Rồi phỏng vấn liên tục những người ngoại quốc, những linh mục hay một vài
công chức Pháp khi họ hồi hương. Hay những người Hoa Kiều theo đường dây buôn lậu
hay theo các tàu đánh cá đến được Thái Lan (họ phải trả trên 30 lượng vàng để
được đưa đi). Từ từ, các tin tức đó giúp hé mở được bức màn tre đang bao chặt
nước Việt Nam và nhờ vào những chứng cớ cùng những chi tiết sống, người ta mới
có thể thiết lập lại được cả một mảng biến cố đã xảy ra trên đất nước này…”. (Hết trích)
Đoạn hồi ký của
Pierre Darcourt không chỉ nhắc về Michel Laurent cùng những ký giả phương Tây
đã nằm xuống vĩnh viễn khi đang làm nhiệm vụ tại Việt Nam, mà còn cho thấy
thoáng qua, vai trò của truyền thông đã bị người cộng
sản ngăn cản và bưng bít ra sao
sau chiến tranh, một khi trục xuất hết các ký giả nước ngoài.
Trong 20 năm Mỹ can
dự vào chiến tranh VN, hầu như tất cả
những ký giả đến với Việt Nam là do tình nguyện, từ chính sự chọn lựa của mình,
để rồi những hãng thông tấn nổi tiếng đã mất đi những ký giả xông xáo, tài
ba và sống chết với nghề. Như
ký giả Joe Galloway, người phóng
viên chiến trường duy nhất theo chân và tường trinh trận đánh Ia Drang khốc liệt
từng được dựng thành phim (We were soldiers), trong một lần trả lời phỏng vấn
đã nói rằng, đó là cuộc chiến của thế hệ của họ và họ muốn chứng kiến, tường
trình về nó. Họ muốn làm những người săn đạn. Săn những sự khốc liệt của chiến
tranh, khói lửa. Như câu chuyện của ký giả Alexander
D. Shimkin vậy.
Tốt nghiệp ngành lịch
sử học, Alexander là một thanh niên hoạt động cho phong trào dân quyền và trở
thành ký giả cho Newsweek, tường thuật về chiến tranh VN thay vì tiếp tục
chương trình cao học do đại học Princeton cấp học bổng. Tháng 6 năm 1972,
Alexander có mặt tại Trảng Bàng, nơi ký giả Nick Út chụp bức hình Phan Thị Kim
Phúc bị bom napalm, thì đầu Tháng 7, Alexander lao vào vùng chiến sự An Lộc,
nơi anh đã cứu một người lính VNCH bị thương ra khỏi vùng hỏa lực của Việt Cộng.
Chỉ hơn 10 ngày sau, anh lại ra đến Quảng Trị, nơi đang diễn ra chiến sự ác liệt
của quân lực VNCH đang chiếm lại cổ thành Quảng Trị. Quả lựu đạn của một tên Việt
cộng đã chấm dứt cuộc đời của người ký giả 27 tuổi và thi thể anh tan biến vào
cát bụi đâu đó tại vùng đất Quảng Trị xa xăm đối với gia đình anh. Trận tái chiếm
cổ thành Quảng Trị còn cướp mất sinh mạng thêm ba ký giả khác, hai ký giả của
đài truyền hình ABC và một ký giả UPI.
Vụ thiệt hại lớn nhất
của truyền thông phương Tây phải kể đến vụ bốn ký giả bị tử nạn mất xác trong
vùng núi đồi Hạ Lào, khi họ theo chân quân đội VNCH trong chiến dịch Lam Sơn
vào năm 1971. Đó là những người mà ký giả Pierre Darcourt nhắc tên trong trích
đoạn hồi ký bên trên. Larry Burrows,
ký giả người Anh của Life Magazine, một trong những ký giả tường trình về chiến
tranh VN lâu đời nhất và được xem là giỏi nhất, bắt đầu sang VN từ những năm
1962. Ông theo chân những người lính đến các trận đánh khét tiếng trong chiến sử,
những tấm ảnh của ông chụp không chỉ là những tấm ảnh chiến trường riêng rẽ mà
là những loạt ký sự ảnh có nội dung, chủ đề. Chiếc trực thăng chở ông cùng và Huet (AP), Kent Potter (UPI) và Keisaburo
Shimamoto (Newsweek) cùng toán bảy sĩ quan, binh sĩ VNCH bị bắn hạ (trong số
này cũng có một phóng viên quân đội người Việt mà chúng tôi không tìm ra tên),
hơn 25 năm sau chiến tranh, người ta mới tìm ra được nơi máy bay này bị rơi, nhờ
vào các mảnh máy bay và các phim 33 ly khai quật được. Di ảnh họ được trưng bày
và tưởng niệm tại bảo tàng Newseum tại Washington DC. cùng với hàng ngàn phóng
viên chiến trường đã “sinh nghề tử nghiệp” từ trước nay.
Còn rất nhiều ký giả
trẻ đã nằm xuống tại Việt Nam chẳng kể hết. Họ thách thức thần chết, cười ngạo
với bom đạn. Để rồi, không phải cái chết của họ còn được nhớ đến muôn đời. Mà
chính những tấm ảnh của họ là chứng nhân và được nhắc đến mãi mãi. Về những cuộc
chiến thảm khốc của nhân loại.
Đinh
Yên Thảo
Di ảnh ký giả Michel
Laurent – nguồn watermargin.com
KEISABURO SHIMAMOTO, NEWSWEEK
chết 1971tại Lào
Henri Huet (1927 –1971, quốc tịch Pháp, có mẹ
là người Việt) là một phóng viên ảnh nổi tiếng của AP trong thời gian chiến
tranh Việt Nam.
Larry Burrows (người Anh, 1926 - 1971) là
phóng viên ảnh của tạp chí LIFE
Phóng viên ảnh AP Henri Huet, trái, và Larry
Burrows của tạp chí Life tháng 2 năm 1971 tại biên giới Việt Nam-Lào gần căn cứ
Ben Het – nguồn photographyblog.dallasnews.com