NHỚ LẠI NHỮNG KỶ NIỆM XƯA
Dr Nguyễn Quí Cường
Từ thuở bé cho đến lúc phải rời
VN 1990 đi tị nạn tại Cộng Hoà Liên Bang Đức tôi đã sống gần 50 năm tại một
ngôi nhà ở đường Nguyễn Tấn Nghiệm sau đổi thành đường Phát Diệm.Khoảng trăm
thước bên trái là chợ Cầu Kho và bên phải trước mặt là nhà thờ Cầu Kho.
Dọc theo con đường có 2 cái
mương lộ thiên cũng là nơi cung cấp lăng quăng cho các học sinh nuôi những con
cá lia thia. Các học sinh tiểu học trường Cầu Kho đi học về ngừng tại mương
rồi lấy vợt ra vớt lăng quăng đem về nhà để nuôi cá. Thời bấy giờ
học sinh có thú chơi đá cá hay đá dế.Cá lia thia hay dế thường được
đem đến bán ở trước cổng trường tùy theo mùa.
Ngôi nhà cất theo lối xưa có 3
gian và lợp ngói âm dương. Đất thì rộng cho nên nhà tôi có thể trồng nhiều loại
cây ăn trái. Nào mít, vú sữa, mận, ổi, đu đủ, xoài mỗi thứ một vài cây và đặc
biệt là có 1 hàng năm sáu cây dừa trồng theo bề dọc của miếng đất. Cây vú sữa
già cỗi cho trái tuy nhỏ nhưng ngọt.
Chúng tôi dùng vợt hay leo lên
cây hái trái. Leo cây thì lựa trái dể hơn, hái nhiều và mau hơn. Mỗi khi cần
với tay để hái trái thì tôi kiểm tra cành cây dưới chân có đủ chắc chắn không.
Anh Dũng, một ngưòi anh họ, ở xa tới leo lên cây hái trái vô ý đứng lên 1 cành
không được chắc khiến cành gẫy và phải đi bịnh viện.
Hái dừa cũng để cho tôi vài kỷ
niệm, một lần dùng cây sào để móc dừa, trái dừa rơi sát trán quệt vào gọng
kiếng nhưng tôi không hề chi. Một lần nữa ôm thân dừa leo đến ngọn thường thì
dừng lại lấy tay vặn trái dừa rồi quăng xuống dưới, lần này lại leo luôn ngọn
ngồi. Đúng là lên dễ mà xuống khó quá trời. Một lần cũng tởn đến già, tưởng
phải kêu xe chữa lửa đem xuống rồi.
Sau nhà có 1 con lạch dẫn ra sông
Cầu Kho Anh Xuân Minh một người anh họ khác làm 1 chiếc "ghe" bằng cách đóng những
tấm ván của những thùng gỗ vào
một cái khung chiếc ghe bằng cây rồi trét “trai” kín những chổ hở của ghe lại. Thỉnh thoảng chúng
tôi đẩy "ghe" ra lạch và đi
ra con sông Cầu Kho để chèo "ghe"
và bơi lội.
Thường chúng tôi bơi lội ở
giữa giòng sông vì nước tương đối sạch hơn tuy nhiên vẫn phải chú ý đến đám lục
bình cùng đám rác rến đủ loại trôi theo giòng nước.
Cuộc sống rất an nhàn; không có
gì lo lắng. Vì gia đình hai người anh họ còn ở ngoài Bắc nên hai anh
được ba mẹ tôi nhận nuôi và xem như con ruột. Hai anh đã ra tốt nghiệp
đại học 1 y khoa và 1 dược khoa.
Sau 1954 ba mẹ tôi cũng đón
tiế̀p và giúp đở nhiều người trong họ từ miền bắc di cư vào miền
nam nên chúng tôi được biết thêm nhiều họ hàng.
Sau khi đậu tú tài tôi ghi
danh học chứng chỉ PCB (physique, chimie, biologie) ở đại học khoa
học Saigon vì muốn vào trường đại học y khoa phải có chứng chỉ này
đồng thời tôi xin làm stage ở pharmacie du Centre ở đường Đồng Khánh
Chợ-Lớn, để sau này có thể học lấy thêm bằng dược sĩ. Mỗi năm có
cả ngàn học sinh ghi danh học chứng chỉ PCB mà cuối năm chỉ có 2000
đến 300 người đậu và năm đó là năm cuối cùng đại học khoa học
còn mở lớp PCB. Năm sau muốn học y khoa thị̀ thi tuyển vào
lớp dự bị y khoa AMP.
Năm 1968 tôi nhập ngũ theo lệnh
động viên.Tôi thụ huấn quân sự khoảng 2 tháng tại trưòng võ bị Dalat vì
trường võ bị Thủ Đức “chê” các sĩ
quan khoá trưng tập 10 Nghiêm sĩ Tuấn nên lần đầu tiên trường võ bị
Dalat nhận huấn luyện quân sự cho khóa trưng tập y nha dược. Đặc
biệt đối với các y nha dược sĩ tất cả đều được gắn lon trung úy
khi nhập ngũ.
Vào trường võ bị các khóa sinh
đưọc yêu cầu gở lon trong lúc học tâp để cho việc huấn
luyện dể dàng và cuối tuần khi ra khỏi trường võ bị thì được
đeo lon để đi ra chợ Dalat “bát
phố”.
Sau khi được huấn luyện quân
sự chúng tôi trở về trường quân y học thêm về hành chánh quân y và
sau đó bắt thăm chọn đơn vị. Tôi chọn đơn vị ở Kiên Giang vì có quen
với ds Hội ở tỉnh này.Trong thời gian tại ngũ tôi phục vụ tại bịnh viện
tiểu khu Kiên Giang cùng với ds Nguyễn Bảo Côn k67, Ds Côn lo về tiếp
liệu còn tôi lo về xét nghiệm. Bác sĩ chỉ huy trưởng là bác sĩ Bùi Trọng
Nghiêm, bác sĩ Nguyễn Huy Lục lo phòng khám ngoại chẩn ngoài ra còn nha sĩ
Phước.
Sau đó tôi xin chuyển về Quân
Dược Viện, lúc này đơn vị còn ở trong căn cứ 70 với dược sĩ Nguyễn văn Dưỡng
là quyền chỉ huy trưởng.
Sau một thời gian Bác sĩ dược
khoa Trần Tấn Thông được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng thế ds Dưỡng và Quân
Dược Viện dời cơ sở qua Khánh Hội .
Ở đây lúc đầu còn có ds Trần văn Đông k65
chỉ huy phó, ds Tuấn k64, ds Châu k67, ds Giao k67 cùng làm việc nơi đây. Tại
Quân Dược Viện. Ds Châu và tôi được thăng cấp đại úy và có chuẩn tướng Vũ
ngọc Hoàn cục trưởng cục quân y đến đự lễ.
Sau này khi tôi sắp biệt phái về
bộ Y Tế, về Viện Quốc Gia Y Tế Công Cộng (VQGYTCC) thì có 1 số dược sĩ được thuyên chuyển đến Quân Dược Viện như Ds Phu
k67, Ds Trường , Ds Tú, Ds Thọ, Ds Ước v.v.
VQGYTCC lúc đầu ở Trần Hoàng Quân
trước là cơ thể học viện của trường đại Y Khoa sau một thời gian mới dời
qua cơ sở mới xây cất ở Chánh Hưng Viện trưởng VQGYTCC là bác sĩ Đặng Quốc Phú,
Bs Huỳnh Đức Tình phó viện trưởng, Bs Nguyễn văn Ba trưởng
khối thí nghiệm, Bs Thiều khối huấn luyện, Bs Văn văn Của khối cộng đồng. Các
dược sĩ làm việc ở dây còn có có Ds Hoàng 66, Ds Châu 67, Ds Kiên 67, Ds Liên
67, Ds Tạo 67, Ds Xuân 68 , Ds Anh 68, Ds Thanh Hà, Ds Đại.
Có 4 kỹ sư Phú Thọ đến làm ở Viện
: Ks Quang, Thăng, Thắng, Khoa. Các tá viên xét nghiệm có: cô Huệ, cô Ngọc, cô Nguyệt (vợ ks Thắng), cô Hương, cô Tý.
Chủ sự phòng hành chánh là anh
Khanh cùng các cô Lạc, cô Láng , cô Yến (thỏ), cô Cúc , cô Ái Liên, cô
Lan (vợ của ds Xuân), cô Mai,
cô Diễm, cô Chanh (vợ ks Quang), cô Đào Hương.
Một số nhân viên tôi còn nhớ tên
như Bs Thạch (có thời làm thuyền trưởng), Bs Hào (Huế), Ds Hà ngọc Sơn, Ds
Nguyễn Hùng Chất, Ds Nguyễn văn Nhi, các anh Thành , Thìn, Nhơn, Tiếu,
Miễn, Chung cũng như các bà Huân, bà Cúc, bà Liêu.
Tôi làm việc ở đây cho đến khi
cộng sản xâm chiếm miền Nam vào năm1975.
Sau một thời gian ở trong "trại cải tạo" tôi trở về
nhiệm sở cũ với tên Viện Vệ Sinh. Ban lãnh đạo gồm bs Nguyễn Bát Can giám đốc,
bs Nam Hà, nữ bs Mười Hai, nữ bs Bích Hà, Anh Hai Nhàn phó giám đốc lo về hành
chánh.
Ít lâu sau bsTruyền yk65 ̣(chị Truyền cũng là 1 yk68) được bổ
nhiệm làm phó giám đốc chuyên môn.
Năm 1983 tôi theo học 1
khóa châm cứu do thành đoàn tổ chức.Sau 3 tháng học tập được cấp 1
chứng chỉ châm cứu 1.Thành đoàn cho biết sẽ tổ những khóa kế tiếp
nếu có điều kiện.
Năm 1984 Sở Y tế thành phố
HCM ở đường Hồng thập Tự - Bộ Y Tế cũ - tổ chức khóa châm cứu
chuyên sâu 9 tháng dành cho Y Nha Dược sĩ cùng các lương y nên tôi ghi
danh học. Một trong các giảng viên là bs Trương Thìn yk68. Khi làm việc
tại Akuna Waldbrunn một hôm trò chuyện với bs Đào công Cần mới biết bs
Cần cũng có theo học khóa châm cứu trên.
Sau các khóa châm cứu lại
được anh Duy Toản, một huynh trưởng hướng đạo, cho hay cụ Lê Mộng Ngọ
có mở lớp châm cứu tại nhà và rủ cùng đi học.Cụ Ngọ có trao cho
mổi học viên mới 1 khúc cây nhỏ bằng đồng dài độ 10cm , một đầu như
đầu viết bic. Đầu này sẽ ấn vào huyệt thay vì dùng kim để châm.Lớp
học có độ chục học viên.
Cụ Ngọ mở lớp vì muốn
truyền nghề lại cho các thế sau. Cụ nhận bịnh, vừa chữa bịnh vừa hướng dẫn cho các học viên. Cụ chữa bịnh và dậy học
miễn phí.Cụ thành lập nhóm Chỉ Châm Liệu Pháp còn gọi Trường Phái
Đại Đô.Tôi đi học được khoảng 2 năm thì được phép xuất cảnh qua
CHLBD.Sau này khi Cụ Ngọ đi Mỹ lớp học được trao lại cho cụ Thu Lương.
CHLBĐ đã cho gia đình tôi visa
nhập cảnh từ năm 1979 nhưng nhà cầm quyền công sản lấy lý do là tôi thuộc diện
“khoa học kỹ thuật “ nên giữ
lại không cho phép xuất cảnh cho đến năm 1990 mới đồng ý cho đi.
Như vậy sau 15 năm sống chung
với cộng sản gia đình tôi được cộng sản cho phép đi Cộng Hòa Liên Bang Đức
(CHLBĐ) năm 1990.
Đến Munich gia đình tôi được đưa
vào trại tị nạn. Chúng tôi được đưa đi khám sức khỏe sau đó chờ ghi danh khóa
học tiếng đức.Hơn một năm học tiếng đức nhưng thấy không đi đến đâu. Đi tìm
việc làm không phải dể dàng với cái tuổi năm mươi.
Năm 1993 ds Tạ văn Dưỡng, anh
của bs Tạ văn Năng y68 giới thiệu tôi vào” Hội Người Việt
Tỵ Nạn Cao Niên Munchen-Bayern” .Hội viên phải đủ 50 tuổi mới được thu nhận làm hội viên.
Tôi gia nhập hội từ đó đến
nay cũng được 26 năm.
Mục đích của Hội theo điều mở đầu của NỘi
Qui: Mục
đích của la Người Việt Tỵ Nạn Cao Niên là để Quý-vị Cao
Niên ngụ tại München và vùng phị cận có cơ hội gần gũi nhau, chia vui sẻ buồn
trong hoàn cản hiện tại nơi đất khách quê người, trong tình yêu thương và đoàn
kết.
Các sinh hoạt của Hội nhằm
phụng-vụ văn-hóa và xã-hội.
Hội
cũng sẵn sàng đóng góp ý-kiến xây-dựng cho những vấn đề khó khăn giữa cộng-đồng
Người Việt Tỵ Nạn.
Năm ngoái hội có tổ chức kỷ
niệm 31 năm thành lập hội và trong Bản tin ngày kỷ niệm có đăng
nhiều tin tức và hình ảnh sinh hoạt hộ̣i trên 30 năm dã qua.
Bản tin do HV Đàm văn Tiếu phụ trách
từ ngày thành lập hội đến nay la 31 năm.
Ban đầu Bản Tin Cao Niên chỉ
có 4 trang đánh máy sau nâng lên đến 60 trang như bây giờ, gồm phần
thông tin nội bộ, phần tin tức cùng những vấn đề liên quan đến cộng đồng Người
Việt Tỵ-Nạn, đến quê hương Việt-Nam và tin thế giới và khäo cứu v.v. .
Cùng năm 1993 Bs Nguyễn
văn Thông có tìm gặp tôi và nói Trung tâm châm cứu “Akupunktur Zentrum” cần bs châm cứu để phát triển thêm chi nhánh
tuy ngoài bs Thông còn có bs Thái văn Toại và bs Đoàn Minh Quang đang
làm việc tại Akuna.
AKUNA được thành lập từ năm
1978 có trụ sở chánh tại thị trấn Walbrunn.Cơ sở là 1 khách sạn Kurhotel
Sockenbacher Hof.Hai từng lầu dùng làm khách sạn , từng trệt là tiệm ăn và
phòng mạch. Akuna cách Munich trên 300 km về hướng tây bắc.
Akuna dành riêng 1 phòng ngủ cho
các bác sĩ và các bác sĩ được ặn uống miễn phí tại tiệm ăn vì các bác sĩ thường
ở xa nơi làm việc nên thứ hai đi làm và ở luôn tại Waldbrunn cho đến trưa thứ
sáu mới đi về nhà.
Akuna đã có 1 chi nhánh ở
Eberbach nay muốn phát triển thêm nên cần bác sĩ châm cứu.
Trong thời gian lo giấy tờ để xin
phép hành nghề và gia nhập y sĩ đoàn, Akuna mở thêm 2 chi nhánh tại Viechtach
và có nhận thêm bác sĩ Cần và nữ bác sĩ Phượng yk66. Sau đó lại thêm nữ
bác sĩ Tuyết đến làm việc cho Akuna.
Bác sĩ Quang, đồng khóa với bs
Cần và bs Phượng, được điều đến Akuna Mannheim khi chi nhánh này khai
trương.
Các bác sĩ Việt
Nam phụ trách về châm cứu còn các bác sĩ người Âu châu như bác sĩ
Finiwick., bs Ruggiro , bs
Pawelke lo việc nhận bịnh và cho thuốc men.
Thời gian trước khi các bs y
khoa Saigon đến cộng tác với Akuna bs Lương lễ Hoàng đã làm việc nơi
đây nhưng được vài năm thì xin nghỉ việc và mở phòng châm cứu riêng
nhưng thất bại.
Đến năm 1996 tôi được giấy phép
hành nghề và gia nhập y sĩ đoàn và chính thức làm việc cho trung tâm châm cứu
Akuna.
Năm 1997 Akuna mở thêm 1
Kurklinik Schmelmerhof tại Bad Aibling cách Munich 60 km.Tại Bad
Aibling hay Viechtach phòng trọ có cả bếp nữa nên thỉnh thoảng các bà
vợ lại tháp tùng chồng đến các trung tâm Akuna nghỉ ngơi.
Thời điểm này là thời vàng son
của Akuna. Chi nhánh Bad Aibling ngày có 60 đến 100 bệnh nhân đến châm cứu nên
cần từ hai đến ba người châm cứu do đó thỉnh thoảng Akuna có nhận thêm châm cứu
gia người tàu.
Bs Toại , bs Cần và tôi thay
phiên làm việc tại Bad Aibling cho đến khi bs Toại nghỉ việc và đi Mỹ. Tiếp đến
bs Cần về hưu. Tôi tiếp tục làm nhưng chỉ được một thời gian thì trung tâm
Akuna đóng cửa sau gần 30 năm hoạt động.
Về hưu thỉnh thoảng có dịp
tôi lại qua Paris hay qua Mỹ gặp lại bạn bè thân hữu.
Hẹn gặp lại các bạn.
Nguyễn Quí Cường