Tác giả: Leszek Buszynski
Liêm Nguyễn
lược dịch
Mặc dù chúng ta chỉ cảm
thấy sốc và ngạc nhiên với những động thái hung hăng gần đây của Trung Cộng ở
Biển Đông, hành vi của nước này thực ra khá liên tục trong suốt nhiều thập kỷ
qua.
Lần đầu tiên Trung Cộng dùng
võ lực trong khu vực là vào tháng Giêng năm 1974 khi quân đội nước này cưỡng
chiếm quần đảo Hoàng Sa từ miền Nam Việt Nam. Rồi vào tháng Ba năm 1988, Hải
quân Trung Cộng lại đụng độ với tàu Việt Nam để chiếm đoạt thêm 7 hòn đảo trong
quần đảo Trường Sa.
Năm 1995, Trung Cộng chiếm
luôn rạn đá Vành Khăn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines.
Rồi họ bắt đầu xây dựng và gia cố các công trình xây dựng trên các rạn san hô
lân cận. Tháng Tư năm 2012, Trung Cộng lại đụng độ với Philippines rồi lấy luôn
bãi cạn Scarborough. Trung Cộng sau đó lại lăm le Bãi Cỏ Mây. Tháng Ba năm
2014, tàu cảnh sát biển Trung Cộng ngăn cản tàu chở hàng Philippines tiếp tế
cho nhóm thủy quân lục chiến đồn trú trên một xác tàu nằm ở đó.
Tháng Tư năm 2014, Trung
Cộng lại mang giàn khoan dầu Hải Dương 981 vào vùng chủ quyền của Việt Nam.
Việc này đã tạo ra những xung đột gay gắt với Việt Nam và những rắc rối chỉ
được giải quyết khi cái giàn khoan này được mang đi trước thời hạn.
Từ cuối năm 2014, Trung Cộng đã khởi công những dự án cải tạo mở rộng ở 8 địa điểm thuộc quần đảo Trường Sa. Việc nạo vét ở đảo ngầm Chữ Thập là đặc biệt đáng quan tâm. Những tàu hút cát của Trung Cộng đã đổ những lượng cát khổng lồ lên rạn san hô, nâng độ cao của nó lên trên mực nước biển, để cho phép xây dựng một đường băng dài 3.000 mét dọc theo chiều dài của đảo. Sân bay này sẽ hỗ trợ cho các hoạt động quân sự của Trung Cộng tại quần đảo Trường Sa. Với sự hỗ trợ không quân cho cảnh sát biển, Trung Cộng có thể đe dọa an ninh của Việt Nam và Philippines.
Với sự gia tăng hiện
diện ở quần đảo Trường Sa, Trung Cộng hy vọng có thể áp đặt các giải pháp có
lợi cho họ với các bên tranh chấp trong khối ASEAN. Điều đó có thể đưa tới một
sự đầu hàng tự nguyện từ các nước ASEAN, và rồi họ sẽ phải công nhận chủ quyền
của Trung Cộng trên toàn Biển Đông. Bắc Kinh hy vọng có thể dụ dỗ các nước này
bằng các mối quan hệ hữu hảo và các lợi ích thương mại và đầu tư thông qua các
dự án cơ sở hạ tầng của cái Ngân hàng Đầu tư Châu Á (AIIB) mới được thành lập
gần đây.
Mặc cho những áp lực mà Trung
Cộng đang áp đặt lên các nước có tranh chấp trong khối ASEAN, có vẻ họ sẽ không
đạt được mục tiêu đề ra. Lý do là chính những hành động của Trung Cộng đã dẫn
tới sự can dự ngày càng gia tăng của các nước lớn vào các tranh chấp ở biển
Đông. Cả Việt Nam và Philippines đã tìm đến Mỹ để hỗ trợ việc chống lại Trung Cộng.
Philippines và Mỹ có một
lịch sử hợp tác quân sự lâu dài. Vào năm 1999, một Hiệp định Thăm viếng Quân sự
đã được ký kết và vào tháng Tư năm 2014, khi Tổng thống Obama đến thăm Manila,
Hiệp định Hợp tác Quốc phòng nâng cao đã được hoàn thành. Thỏa thuận này cho
phép Hải quân Mỹ tăng cường tiếp cận các hải cảng của Philippines và tạo điều
kiện cho sự có mặt của quân nhân Mỹ thông qua các căn cứ quân sự và sân bay của
họ ở đó.
Việt Nam cũng đã phát
triển quan hệ an ninh với Mỹ trong thập kỷ qua, trong nỗ lực làm cân bằng trong
mối quan hệ với Bắc Kinh. Do bị giới hạn bởi sự gần gũi với Trung Quốc, Việt
Nam sẽ không thể tạo dựng một mối quan hệ an ninh chặt chẽ hơn với Mỹ, nhưng
chính phủ Việt Nam hy vọng rằng mối quan hệ với Mỹ sẽ có tác động kiềm chế
Trung Cộng.
Malaysia và Indonesia
trước đây đều đứng ngoài cuộc, nhưng những động thái gần đây của Trung Cộng trong
khu vực đã làm họ phải lo lắng. Malaysia thực sự đã rúng động khi các cuộc tuần
tra hải quân của Trung Cộng tiến tới bãi ngầm James, điểm cực nam của của đường
chín đoạn nằm trong lãnh hải Malaysia. Trong khi ngoài mặt các nhà lãnh đạo
Malaysia vẫn tiếp tục làm ngọt với Trung Cộng, các quan chức quốc phòng của họ
đã thực sự cảm thấy lo lắng. Malaysia dự định xây dựng một căn cứ hải quân ở
Bintulu thuộc bang Sarawak, nằm gần bãi ngầm James; và Bộ Quốc phòng Malaysia
cũng đang muốn người Mỹ giúp trong việc huấn luyện để phát triển một quân đoàn
thuỷ quân lục chiến theo mô hình của Mỹ.
Indonesia trước đây chỉ
muốn đóng vai trò trung gian hòa giải, đứng ngoài các tranh chấp. Nhưng gần
đây, nước này cũng đã bắt đầu lo lắng về chủ quyền trên quần đảo Natuna. Tuyên
bố chủ quyền của Trung Cộng mâu thuẫn sâu sắc với học thuyết “trục hàng hải
toàn cầu” của Indonesia. Bộ trưởng Quốc phòng Indonesia, tướng Moeldoko, đã
cảnh báo về khả năng bất ổn ở Biển Đông và cho biết sẽ có thêm các đơn vị không
quân Indonesia được triển khai đến quần đảo Natuna.
Những biến cố này có
liên quan gì tới nước Úc của chúng ta? Một số người vẫn cho rằng Úc nên tránh
dính líu vào các vấn đề của Đông Á có thể dẫn đến xung đột giữa Mỹ và Trung Cộng.
Tôi thì cho rằng nước Úc nên chấm dứt việc giới hạn quá mức các mối quan tâm
chiến lược, bởi vì những bất ổn ở Biển Đông sẽ dẫn đến những hậu quả cho chính
môi trường an ninh của Úc.
Áp lực không ngừng của Trung
Cộng lên các nước ASEAN sẽ thu hút không chỉ có Mỹ, mà còn Nhật Bản, nước cũng
có mối quan tâm riêng về động thái của Trung Cộng ở Biển Hoa Đông, và đặc biệt
là xung quanh quần đảo Senkaku. (Nhật Bản đã tìm cách giúp tăng cường khả năng
hàng hải của cả Việt Nam và Philippines). Sự tham gia ngày càng tăng của các
lực lượng quân sự bên ngoài vào biển Đông có khả năng gây mất đoàn kết trong
ASEAN – tổ chức đã bị chia rẽ trong các tranh chấp ở Biển Đông do các nước
không có tranh chấp như Campuchia và Thái Lan ưu tiên quan hệ với Trung Cộng.
ASEAN sẽ vẫn tồn tại, nhưng sự thiếu năng lực của tổ chức này đang trở nên rõ
ràng hơn.
Một hậu quả nữa là sự
phân cực trong khu vực, giữa Trung Cộng và vài nước đồng minh, với liên quân
Mỹ-Nhật với sự tham gia của các nước nhỏ bị Trung Cộng chèn ép hoặc lo sợ trước
những tham vọng của nước này.
Tình trạng này có thể
được ngăn chặn nếu các cường quốc bên ngoài lên tiếng, bày tỏ mối quan ngại của
họ về Biển Đông, và thúc ép Trung Cộng phải chấm dứt các hành động khiêu khích
và đàm phán các quy tắc ứng xử với ASEAN. Trong quá khứ, cách làm này đã cho
thấy hiệu quả. Khi phải lo sợ về sự tham gia của các nước bên ngoài, Trung Cộng
đã phải điều chỉnh hành vi của nó. Ví dụ, Trung Cộng đã phải rút giàn khoan dầu
trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam trong tháng Bày năm 2014 sau
khi Việt Nam phát động một chiến dịch làm cho Trung Cộng phải mắc cỡ trên
trường quốc tế, khi cho thấy các hành động sai trái của Trung Cộng. Thật vậy,
nước Úc nên đóng góp tiếng nói của mình cho công cuộc này trong việc thừa nhận
rằng chúng ta muốn thấy một khối ASEAN đoàn kết.