Con Đường Sụp Đổ của Cộng Sản
là
Điều Kiện Tất Yếu của Lịch Sử.
Những câu nói sau đây mang tính chân lý
và nguyên lý của phạm trù triết học mà chính từ cửa miệng các lãnh tụ CS Nga,
nơi khai sinh chủ thuyết CS làm đảo lộn lịch sử hơn nửa thế kỷ 20 qua. Nhân loại
chìm đắm trong cơn ác mộng khôn lường. Người ta tưởng chừng cơn lốc CS quốc tế
sẽ càn quét đến tận cùng trái đất, nhưng có ngờ đâu; cũng chính tại nơi khai
sinh ra nó và chính những lãnh tụ CS Nga khai tử và đào huyệt chôn nó, khiến
nhân loại thở thào nhẹ nhõm! và đồng thanh tôn vinh họ là những anh hùng lịch sử
thời đại của thế kỷ 20, qua các các câu nói bất hủ như sau:
Tổng
bí thư cộng đảng Nga Mikhail Gorbachev, sau khi khai tử chủ nghĩa CS và đắc cử
Tổng thống Nga đầu tiên ông nói : “Tôi đã bỏ nửa cuộc đời cho lý tưởng Cộng
sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng cộng sản chỉ biết tuyên
truyền và dối trá”.
Bí
thư thủ đô Moscow, Boris Yeltsin, Tổng thống Nga thứ 2, sau Gorbachev ông nói: “Đảng
cộng sản không thể nào sửa chữa, mà phải đào thải nó”.
Tổng
bí thư cộng đảng Nam Tư Milovan Djlas nói: “20 tuổi mà không theo CS, là không có trái
tim, 40 tuổi mà không từ bỏ CS, là không có cái đầu”.
Chân lý và chính nghĩa Dân Tộc là
trận chiến thắng cuối cùng giữa hai cực: THIÊN - ÁC
Ta hãy đọc một trích đoạn của Gs/Ts.
Martin Malia, viện sử học quốc tế chuyên nghiên cứu về CS đã nêu lên những luận
cứ và kết luận như sau: “chủ nghĩa CS là một sự kiện lớn của thế kỷ
20. Nó bùng nổ và bước vào lịch sử tại một gốc trời Âu Châu, giữa sự tang tóc
đau thương của thế chiến thứ Nhất, và sau biến động lớn của thời kỳ 1939 –
1945, nó tràn về phía Tây Âu ngay giữa lòng nước Đức, rồi nó khựng lại ở đó; chỉ
tràn về phía Đông Âu; rồi tiến thêm về phía Đông Nam Á Châu đến tận bờ biển
Trung Hoa, rồi len vào Việt Nam. Với kỳ công ấy, CS đã đạt đến tột đỉnh của vận
may thống trị một phần ba nhân loại: chừng như nó ở vào tư thế sẵn sàng tiến tới
không ngừng. Trong hơn bảy thập niên đó, CS luôn ám ảnh chính trường quốc tế;
phân thế giới làm hai cực: Một bên cực tả là những kẻ tin tưởng rằng chủ nghĩa
CS là cứu cánh cho xã hội loài người, và một bên cực hữu là những người cho rằng
chủ nghĩa CS là phi nhân bản, vô cùng bạo ngực và chuyên chế nhất trong lịch sử.”
Do
vậy, người ta trông đợi các sử gia đương đại sẽ dành ưu tiên để giải thích thỏa
đáng hiện tượng tại sao bánh xe chủ nghĩa CS trên đường lăn tới; thì bỗng một sớm
một chiều, sụp đổ nhanh chóng như ngôi nhà làm bằng giấy hàng mã vậy?!
Chúng
ta hãy tuần tự lượt qua các tội ác của chủ nghĩa CS chúng đề rập khuôn, áp dụng
từ độc tài, tàn bạo và dã man nhất trong giai đoạn lịch sử của thế kỷ 20 nầy, thì
chính những dã man đó là mồ chôn chúng qua ngạn ngữ “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”
hoặc “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”.
Thật
vậy, chủ thuyết độc hại nầy đã tạo ra những thời kỳ tàn bạo nhất, sâu rộng và
thảm họa nhất cho dân tộc đó và nhân loại. Nó bắt đầu thực hiện ở Sarajevo năm
1914 và kết thúc ở Moscow năm 1990, đã đóng vai trò chính trong tấn thảm kịch của
thế kỷ 20. Chủ nghĩa Cộng Sản (CNCS) ra đời trước chủ nghĩa Phát xít và chủ
nghĩa Quốc Xã, chẳng những nó tồn tại lâu hơn mà còn tạo những tác động rộng lớn
hơn đến toàn thế giới.
Ý
nghĩa của cụm tù “chủ nghĩa Cộng Sản”
được đề cập đến trong phạm trù nầy là gì? Để trả lời câu hỏi nầy, chúng ta cần
phân biệt giữa hai học thuyết CS và sự áp dụng học thuyết nầy trong thực tế. Chủ
nghĩa CS đã tồn tại trong nhiều thế kỷ, nhiều ngàn năm, như một triết thuyết
chính trị. Triết gia Platon, trong cuốn “Cộng
Hòa”, đã đề ra khái niệm một thành phố lý tưởng, trong đó có con người chẳng
những không bị hủ hóa bởi quyền lực và tiền bạc mà trí tuệ, lý trí và công lý
còn được thể hiện đầy đủ. Thomas More, một học giả và là một chính khách nổi tiếng
từng giữ chức vụ nhiếp chính của Hoàng Gia Anh năm 1530, bị vua Henry VIII ra lịnh
hành quyết, cũng từng mô tả một xã hội lý tưởng trong cuốn “Utopia” hay “Xã Hội
Không Tưởng” Triết học không tưởng có thể đóng một vai trò cần thiết trong việc
đánh giá một xã hội. Vì triết học nầy tồn tại dựa trên các ý niệm, mà ý niệm lại
chính là mạch sống của các nền chính trị dân chủ trên thế giới. Tuy nhiên, chủ
nghĩa CS mà chúng ta đề cập ở đây không thể nào tồn tại trong phạm trù ý niệm.
Chủ nghĩa nầy là một hiện thực tồi tệ đã tồn tại ở những nước nhất định vào những
thời điểm lịch sử quan trọng, và được thực hiện bởi những lãnh tụ khét tiếng tội
ác như: Vladimir IIich Lenin, Josif Stalin, Mao trạch Đông, Hồ chí Minh, Fidel
Castro; và tại Pháp cũng có những lãnh tụ CS nổi tiếng như Maurice Thoze,
Jacques Duclos và Georges Marchais.
Các
chế độ CS đã áp dụng những biện pháp trấn áp toàn diện, và triệt để, tổng hợp
dưới một chế độ cai trị bằng khủng bố tàn bạo nhất và khủng khiếp nhất để đạt cứu
cánh. Như Ignazio Silone có nói “Cách mạng
như một loại cây, chúng ta có thể xem trái mà biết được cây gì”. Và không
phải là vô cớ mà những đảng viên Dân chủ - Xã hội thường được biết với cái tên
là những người Bôn-sơ-vít, hồi tháng 11 năm 1917 đã quyết định tự gọi họ là “những người CS”. Thì tại sao họ không dựng
lên ở điện Kremlin một tượng đài dành cho Thomas More và Campanella, là những
người mà họ xem là các nhân vật tiền bối của phong trào Cộng Sản.
Các
chế độ CS, mục đích là củng cố quyền lực, đã vượt lên các tội ác riêng lẻ và những
vụ thảm sát qui mô nhỏ có tính cách nhất thời, để biến những tội ác nhắm vào quần
chúng như một cuộc khủng bố tinh thần, nhằm răn đe củng cố hệ thống chính quyền.
Qua giai đoạn nầy, CS bắt đầu thi hành những biện pháp trấn áp thường nhật,và đồng
thời kiểm duyệt tất cả mọi phương tiện truyền thông, vu cáo để bắt bớ, tống
giam hoặc tống xuất những thành phần bất đồng chính kiến. Tất cả các chính quyền
CS Nga và Đông Âu, đến Trung Cộng, Bình Nhưỡng, Việt Nam, Cu ba v.v... dưới tầm
mắt quan sát của quốc tế, các nước Phương Tây, không một nước nào thoát ra khỏi
qui luật nầy. Nhiều tài liệu từ các văn khố và những lời khai của nhân chứng,
đã chứng minh rõ ràng là bất cứ ở vào thời kỳ nào của CS, thì khủng bố tinh vi,
hoặc thô bạo là bản chất của chủ nghĩa CS hiện đại vậy.
Qua
những dữ kiện trên, quý vị có thể thấy rằng cốt tủy của hiện tượng khủng bố
không chỉ giới hạn ở những đối tượng theo một mô thức, mặc dầu chỉ trên thực tế,
các chế độ CS khác nhau có thể phạm các tội ác đó ở một mức độ khác nhau. Mô thức
nầy bao gồm việc hành quyết thông qua nhiều phương tiện, như xử bắn, đâm, chém,
chôn sống tập thề, trói ké nhiều người bỏ bao có đá nặng thả xuống sông &
biển; trong một số trường hợp dùng dùng hơi ngạt, thuốc độc, dùng xe ngụy tạo
những tai nạn thanh toán lẫn nhau trong nội bộ đảng mà CS Hà Nội thường áp dụng.
Ngoài ra, những sự tiêu diệt qua bệnh tật và đói khát bằng hình thức lưu đày
lên nơi rừng thiêng, nước độc không có môi trường sống, cách ly mọi sự tiếp tế. Trường hợp nầy dành riêng cho những
phong trào nhân dân bất phục và nổi dậy.
Theo
bảng thống kê của Tổ Chức Quốc Tế về truy cứu tội ác chủ nghĩa CS dựa theo ước
tính có thể còn thiếu sót dưới các chế độ Cộng Sản từ khi nắm chính quyền cai
trị như sau:
CS Nga Sô: 20,000,000.00
(20 triệu sinh linh) ÂÂÂÂÂÂA
CS Tàu : 65,000,000.00 (65 triệu sinh linh)
CS Việt Nam:
01,500,000.00 (1,5 triệu sinh linh)
CS Bắc Hàn
: 02,000,000.00 (02 triệu sinh
linh)
CS Cam Bốt: 02,000,000.00 (02 triệu sinh linh)
CS
Đông Âu : 01,000,000.00 (01 triệu
sinh linh)
CS
Mỹ Châu La Tinh : 150,000.00 (150 ngàn sinh linh)
CS
CS Phi Châu: 01,700,000.00 (01,7 trăm ngàn sinh linh)
CS
Afghanistan : 01,500.000.00 (01,5 trăm
ngàn sinh linh)
Ngoài
ra còn có khoảng 10 người chết vì phong trào Cộng Sản Quốc Tế và các đảng CS
không nắm quyền cai trị. Qua con số to lớn gần 100 triệu người chết dưới nhiều
hình thức của các lãnh tụ vô cùng dã man, tàn ác của chủ nghĩa Cộng Sản. Nếu
tính theo tỷ lệ dân số thì Khmer Đỏ, Pol-bot là tội phạm số 1, đã giết 1/4 (1
phần tư dân số) trong vòng 3 năm rưỡi, thông qua những vụ giết rùng rợn nhất bằng
nhiều hình thức của thế kỷ 20. Nhưng, nếu xét về số người chết vì một chế độ
thì hạng nhất thuộc về CS Tàu dưới thời kỳ của Mao trạch Đông, kế tới CS Nga, dưới thời của Lenin và Stalin,
và tiếp theo là CS Việt Nam dưới thời Hồ chí Minh rập khuôn quan thầy Nga –
Tàu.
Nếu
luận tội một cách khách quan và công bằng từ nguyên nhân tới thủ phạm chính của
tội ác là CS Nga, mà lãnh tụ đầu tiên là Vladimir Lenin (1917- 1924) chịu trách
nhiệm về cái chết của 4 triệu người, tội ác giết người lớn nhất là nội chiến ở
Nga, người kế tục là Joseph Stalin (1924-1953) chịu trách nhiệm về thảm sát từ
16 đến 20 triệu người Nga; tội ác diệt chủng khủng khiếp nhất về Trại tập trung
Goulag. Khi nắm chính quyền Lenin từng nói như để mạ lỵ và “súc vật hoá” kẻ đối nghịch với chủ nghĩa CS là “kẻ thù nhân dân”, là
“giống sâu bọ có hại” phải bị trấn áp và tiêu diệt. Và vả chăng, dòng mạch
thừa kế di sản từ Stalin đến Mao, Hồ, Kim nhật Thành cho đến Pol Pot quá rõ
ràng. Với mỗi lãnh tụ mới đều có nhận sự giúp đỡ từ vật chất đến nguồn cảm hứng
ý thức hệ của quan thầy chủ nhân ông đi trước. Nhắc đến tên đồ tể qủy đỏ Pol
Pot trong dịp được nhồi sọ đầu tiên chủ nghĩa Mác xít tại Paris năm 1952 (trong
khi những loại triết gia như Jean Paul Sartre và Maurice Merleau-Ponty đang giải
thích cách nào mà sự khủng bố lại là bà đỡ của“chủ nghĩa nhân đạo”). Vậy nếu như cuộc tranh luận chỉ dựa vào mức
độ định lượng tàn bạo, cách áp dụng hai tiêu chuẩn khác nhau phải thất bại và
CS hiện nguyên hình là chủ nghĩa chuyên chế phạm tội ác ghê gớm nhất. Theo ký
giả Raymond Aron trước đây và nhà báo Francois Furet mới đây đều có lập trường
rõ ràng rằng; CS làm là đánh trống, khua chiêng, rêu rao về tính chất cách mạng
và nhân đạo của mình lại là lừa bịp, phỉnh gạt hàng triệu triệu người khắp nơi
trên hành tinh nầy nhẹ dạ nghe theo, xử dụng họ làm thứ công cụ, rồi quay lại
tàn sát họ một cách khủng khiềp tột bực, khi chiếc mặt nạ CS bịp bợm như thứ nọc
độc, thứ ung thối khắp địa cầu bị rơi xuống.
Trong
thời kỳ 1937-1938 (khoảng thời gian nầy đôi khi được gọi là “Yezhovshchina” hay thời kỳ Yezhov) các
nỗ lực củng cố quyền lực của Stalin dẫn đến sự leo thang thanh trừng, giam cầm,
tra tấn, lưu đày và hành quyết trong nội bộ đảng, những thành phần bất đồng
chính kiến lên đến cực điểm cho tới khi Stalin chết vào năm 1953. Với con số kỷ
lục khoảng 7 trăm ngàn người (700.000) bị hành quyết (trong số đó có Khrushev
chết hụt, và sau Malenkov, Khrushev được bầu vào Tổng bí thư, lãnh tụ thứ 4 CS
Nga (1955-1964), ông ta ra lịnh quật mồ Stalin và bêu trên đường phố rửa hận cho
đồng chí của ông cùng cán bộ dân chính bị tội đồ Stalin tàn sát).
Các
vụ bắt bớ của Stalin thường được viện dẫn phản cách mạng, trong đó bao gồm việc
không báo cáo các hành động mưu phản. Trong một sửa đổi luật năm 1937, bị khép
tội là không hoàn thành nhiệm vụ được giao. Trong các vụ điều tra của cục an
ninh nhà nước (GUGB NKVD) vào tháng 10 năm 1936 tới tháng 11-1938, ít nhất có
1,710,000 ngàn người bị bắt, và 724,000 ngàn người bị hành quyết.
Tóm
lại, theo các sử gia “biên niên sử của
CS” tại Đại học Yale, Gs Jonathan Brent, Alexander Nikolaevich, Stephen G.
Wheatcroft, trong số các lãnh tụ CS Nga thì Stalin là một hung thần quỷ đỏ tắm
máu dân tộc Nga tàn bạo nhất (trong suốt thời kỳ thống trị từ năm1924 – 1953).
Về đàn áp & tiêu diệt tôn giáo:
Đối
với các chính quyền CS: Nga, Tàu và Việt Nam thì các giáo hội là một vấn đề nằm
trong kế hoạch của tiến trình tiêu diệt dưới mọi hình thức. Michael EIIman đã
nói rằng ... “ khủng bố chống giáo sĩ của
Giáo Hội Chính Thống Nga và của các tôn giáo khác (1937-1938) cũng có thể hội đủ
điều kiện như là nạn diệt chủng”. Trích tài liệu nhà thờ, Alexander
Nikolaevich Yakovlev đã ước tính rằng hơn 100.000 Linh mục, tu sĩ và các nữ tu
đã bị hành quyết trong thời gian nầy. Phần lớn các nạn nhân là các cựu “Kulaks”
và gia đình của họ, với 669,929 người bị bắt và 376,202 bị hành quyết. Đặc biệt
giáo hội Công Giáo trong hệ thống Vatican lãnh đạo, CS không thể nào có thể chấp
nhận.Vì thế giữa Moscow và Rome đối đầu nhau. Chiến lược tiêu diệt của CS Nga
đã được vạch ra: gián đoạn tất cả mọi liên hệ của giáo hội Công Giáo, hay giáo
hội Hy Lạp Công Giáo với Tòa Thánh Vatican, CS đặt các giáo hội dưới quyền chi
phối của chính quyền. Để đạt tới mục đích và giảm thiểu ảnh hưởng của các giáo
hội đối với đời sống dân sự, một sự kiểm soát gắt gao của chính quyền nơi nào
chưa dẹp được thì biến nó thành công cụ của chính quyền. CS phối hợp việc trấn
áp với các mưu toan mua chuộc và xâm nhập sâu vào hệ thống lãnh đạo giáo hội để
chụp mũ phản động và cáo buộc nhằm tiêu diệt. Sau khi các chế độ CS sụp đổ; mở
lại các hồ sơ mật mới thấy rõ; tại Tiệp Khắc, nhiều nhân vật trong hàng giáo phẩm,
kể cà các Giám mục như là những kẻ ăng-ten “hợp
tác” với cảnh sát mật. Trong đó cũng có một số ít muốn hóa giải, tránh cho
giáo hội những điều hiểm họa, tồi tệ nhất!
Cuộc
trấn áp chống tôn giáo đầu tiên xảy ra ở Albanie, giáo chủ Gaspar Thaci, Tổng
giám mục ở Skhoder, cương quyết không “hợp tác” đã chết do đầu độc trong khi bị
giữ tại một nơi được chỉ định do cảnh sát bí mật canh giữ, GM Vincent
Prendushi, tổng giám mục ở Durres, bị kêu án 30 tù khổ sai, đã chết vào tháng
2-1949 sau một trận tra tấn dã man. Tháng 2 năm 1945, 05 tu sĩ trong đó có các
Giám mục Volai và Glini, phụ chánh của tòa Khâm mạng Tòa Thánh, đã bị kết án tử
hình, xử bắn. Hơn 100 tu sĩ và nữ tu, các Linh mục đang theo học ở các dòng tu
bị đem ra hành quyết hoặc chết trong khi giam cầm. Bị liên quan trong vụ tàn
sát đó, nhiều nhân vật tôn giáo vạ lây; điển hình ông Mustafa Pipa, một luật
gia bị hành quyết, do ông ta đứng ra bào chữa cho những tu sĩ dòng tu
Fransiscains. Cũng nên nhắc lại rằng vào năm 1967, Enver Hoxa đã tuyên bố rằng
Albanie là nước vô thần đầu tiên trên thế giới, nên tôn giáo là đối tượng tiêu
diệt triệt để. Tạp chí Nendori đã loan
báo một cách ngạo mạn và tự hào rằng: “Đất nước Albanie đã làm sạch tôn giáo,
các giáo đường biến thành kho chứa hàng, nhà hội hoặc phá hủy dựng cung văn hoá.
Có tất cả 2,169 giáo đường, trong đó 327 thánh đường Công giáo.
Tại
Hung Gia Lợi, cũng thế; cuộc đối đầu giữa chính quyền CS và giáo hội bắt đầu
vào mùa Hè năm 1948, với việc quốc hữu hóa tất cả hệ thống trường học của giáo
hội, 05 linh mục bị kết án tù, rồi hầu hết các linh mục khác kết án vào mùa Thu
năm đó. Giáo chủ Hồng Y Josef Mindszenty, bị bắt ngày 26 tháng Chạp năm 1948, sau
hai hôm Lễ Giáng Sinh, bị kết án chung thân với cáo buộc “đồng lõa, âm mưu chống lại nước Cộng Hòa” và tội làm do thám cho
các siêu cường tư bản v.v... . Một năm sau tới lượt các dòng nữ tu, đã trục xuất
12,000 ngàn nữ tu. Tháng 6 năm 1951, người phụ tá thân cận Đức Hồng Y
Mindszenty là Gíam mục Grosz, giáo phận Kalorza đã cùng chung số phận với Đức Hồng
Y. Việc trừng phạt các giáo hội và các dòng tu tại Hung Gia Lợi, chẳng những CS
nhắm vào Công Giáo có liên hệ với Rome, mà cả Tin Lành, các tôn giáo khác đều bị
bài xích.
Trên
đây, chỉ nêu lên sự tiêu diệt tôn giáo của CS trên vài nước tiêu biểu trong thế
giới CS, khi Đông Âu và Nga chưa sụp đổ. Để nhân loại nhìn tận mắt cái quái
thai chủ nghĩa CS là thứ qủy đỏ, vô thần, phi nhân bản. Bản chất chủ nghĩa CS lả
độc tài, độc ác, độc trị giống nhau. Vì chúng rập theo khuôn mẫu CS Nga; từ màu
cờ máu và biểu tượng búa liềm, đến hệ thống tổ chức và sự khủng bố tàn ác nhất,
khủng khiếp nhất trên hành tinh nầy trong thế kỷ 20.
Nhân
loại rùng mình kinh tởm, khi nhắc đến những cái tên qủy đỏ Stalin, Hitler, Mao,
Hồ và Pol Pot v.v.. Ngoài cái tội diệt
chủng, tàn sát “đồng chí” còn thêm tội
ác chiến tranh, tôi ác chống nhân loại, qua thảm sát vô số vụ dã man trong Thế
Chiến Thứ 2. Xin nêu lên một trong những số vụ tiêu biểu bị nhân loại lên án nghiêm
khắc đó là; Vụ thảm sát Katyn, được gọi là “Thảm sát rừng Katyn “Tội ác Katyn”. Là một cuộc thảm sát tàn
bạo những người quốc gia Ba Lan do Bộ Dân Ủy Nội Vụ (NKVD), cảnh sát mật Nga thực
hiện vào mùa hè năm 1940, do Stalin chỉ thị, ký và đóng dấu. Số lượng nạn nhân
bị hành quyết được ước tính khoảng 22,000, trong tổng số nầy có khoảng 8,000 là
các sĩ quan Ba Lan bị bắt làm tù binh trong cuộc xâm lăng Ba Lan năm 1939 và
6,000 nạn nhân khác là các sĩ quan cảnh sát, số còn lại là thành phần thuộc giới
trí thức và bị coi là “nhân viên tình
báo, sen đầm, địa chủ, chủ nhà máy, luật sư, thầy tu và viên chức v.v..”.
Trong
Đệ nhị Thế chiến, chế độ trại tù tập trung trên đại lục Âu Châu, từ Oural cho tớ
chân núi Pyrénées, nhưng lịch sử của nó không phải đã chấm dứt với sự bại trận
của Đức và các đồng minh của Đức. Các “quần
đảo ngục tù” nói theo từ ngữ của văn hào Nga Aleksandr Solzhenitsyn, đã được
thiết lập ở Trung bộ và Đông Nam Âu Châu trong các năm 1949- 1950 của Cộng Sản.
Tại Lỗ Ma Ni, số người bị bắt giam trong suốt thời kỳ CS từ 300,000 ngàn tới
1,000,000 triệu, con số thứ hai nầy có lẽ không chỉ gồm tù nhân chính trị mà
còn là những thường phạm nữa. Còn về các trại, sử gia Anh Demis Deletanht cho rằng
có 180,000 bị giam trong các trại tập trung ở Lỗ Ma Ni trong nhựng năm đầu của
thập kỷ 50. Tại Tiệp Khắc, con số tù nhân chính trị trong những năm 1948- 1954
là khoảng 200,000 trăm người. Với một số dân là 12 triệu 6000 ngàn, có 422 trại
tù. Con số tù nhân bị xét xử, hoặc không xét xử do chính quyền CS địa phương muốn
bắt và gửi tới, họ bị hành xử một cách khắc nghiệt.
Thế
giới tù nhân của các nước CS cùng quan điểm giống nhau từ một nguồn mà ra đó là
CS Nga. Cho tới khi Stalin chết, 3 năm sau với bài diễn văn của Khrushev, khi
được bầu vào chức vụ TBT trong kỳ Đại hội 20, ông kết án các tội ác của Stalin,
từ ấy các trại giam dành cho tù nhân chính trị bị đóng cửa tại Nga và các nước
CS Đông Âu.
Sau
thế chiến thứ hai, CS Nga áp đặt ách độc tài lên các nước Nam Âu, Trung Âu và
Đông Âu một cách thô bạo, những cuộc nổi dậy chống Stalin. Lần đầu tiên Nga đưa
chiến xa tràn qua CHDC Đức ngày 17-6-1953 đàn áp Đông Bá Linh và các thành phố
lớn khác những cuộc biểu tình của công nhân, bởi các điều kiện khắc nghiệt của
chính phủ tay sai gây ra. Có ít nhất 51 người chết, một số khác bị xe tăng cán
nát và một số khác bị toà án Nga kết án. Trước đó ngày 30- 6 có 5,171 người bị
bắt và sau đó có hơn 7,000 người bị bắt.
Tại
Hung Gia Lợi năm 1956, và tại Tiệp Khắc năm 1968; trong hai trường hợp nầy, Nga
phải dùng chiến xa đè bẹp những cuộc vùng dậy chống độc tài của mọi tầng lớp
dân chúng. Cứ thế nhiều cuộc xung đột xảy ra khắp nơi, tại Salgotarjan hôm 8-12
có 131 người thiệt mạng do những làn đạn của quân Nga lẫn Hung. Những cuộc trấn
áp tiếp theo những cuộc cách mạng Hung Gia Lợi năm 1957, đã liên quan tới hơn
100,000 ngàn người. Hàng chục ngàn bị bắt giam. Trong thời gian nầy, vụ án gây
chấn động khắp Âu châu là vụ án Imre Nary, Thủ tướng Hung năm 1953, bị gạt khỏi
chính quyền 1955, sau đó lại được ủy nhiệm làm Thủ tướng và đứng về phía nhân
dân chống Nga. Vụ án Imre Nagy và những tòng phạm chấm dứt vào năm 1958. Có hai
vắng mặt: một là ký giả CS Geza Lossonezy là cựu kháng chiến quân từng bị bắt
giam 1951- 1954 và một Bộ trưởng trong chính phủ Nagy.
Vụ
án Thủ tướng Nagy cùng số tòng phạm là tướng Pal Maleter, Bộ trưởng Quốc phòng,
và ký giả Miklos Gimes bị kết án tử hình, cùng 5 tòng phạm khác bị kết án cấm cố
đến tù chung thân. Vụ án Imre Nagy đã tiến hành kín đáo trong toà nhà của nhà
tù trung ương của Thủ đô Budapest, trong căn
phòng được trang bị đặc biệt cho vụ án. Những sưu tầm mới đây đã nhấn mạnh
về sự tàn ác, những sự trấn áp của Nga là đáng xử dụng từ ngữ “khủng bố”. Trong thời kỳ Khrushev, 1960
các biện pháp bất thường đã chấm dứt, các trại tập trung được hủy bỏ.v.v... Năm 1962 mới tiến hành việc thanh lọc cảnh sát
chính trị liên hệ tới các vụ án gỉa tạo của thời kỳ Rakosi, Rajk và 190 nạn
nhân khác đã dứt khóat được phục hồi. Năm 1963 một sự toàn xá được ban hành.
Tuy nhiên việc phục hồi danh dự cho Imre Nagy và các đồng chí tòng phạm của ông
chỉ xảy ra năm 1989, khi các cuộc cách mạng dân chủ toàn vùng Đông Âu vùng dậy
đập tan các chế độ CS. Ngày mà nhân loại văn minh khắp thế giới “hân hoan chứng kiến trận chiến thắng sau cùng của mặt trận chính
nghĩa dân tộc; họ đập tan, quét sạch tà thuyết vô thần của chủ nghĩa Cộng Sản,
chiếc nôi khai sinh ra nó”.
Tưởng cũng nên nhắc lại những tội ác tày trời
của CS Nga. gieo rắc trên toàn vùng Đông Âu, sự kiện nầy là góp phần tàn bạo,
là hiện tượng khách quan của sự sụp đổ,
là điều tất yếu của lịch sử. 12 năm sau Hung Gia Lợi, các chiến xa Nga tràn qua
Tiệp Khắc gieo rắc sự kinh hoàng vào năm 1958, khác với sự can thiệp năm 1956
đàn áp các cuộn nổi dậy của dân chúng chống lại chủ nghĩa CS Nga. Muốn đề cập ở
đây về thời gian và bối cảnh, về tình hình quốc tế bấy giờ, và tình hình đặc biệt
của chế độ CS trên thế giới. Phần chính các đơn vị tấn công đàn áp là của Nga,
nhưng có 4 nước CS khác trong khối Minh Ước Varsovie, Nga cưởng bức tham gia
trong đó là: Bảo Gia Lợi, Hung Gia Lợi, Ba Lan, Cộng Hoà Dân Chủ Đức. Điều nhấn
mạnh ở đây một sự khác biệt căn bản khác là Tiệp Khắc không có quân đội Nga
đóng quân như 4 nước kia. Một nước bại trận, mà xem như có thể bị chiếm đóng và
trong đó có các sư đoàn Nga can thiệp trong các trận đánh trên đường phố. Bộ
tham mưu quân đội Nga dự liệu khả năng của một sự chống cự của quân đội Tiệp Khắc
chống sự xâm lăng của Nga, nghĩa là một cuộc chiến tranh địa phương hay ở Âu
châu?.
Vì thế, có thể hiểu được khối lượng lớn
lao về các phương tiện Nga đem ra xử dụng. Trong đêm 20 rạng ngày 21-8-1958, bằng
khẩu lịnh mật “Danube” mà Nga chuẩn bị từ hôm 8-4 theo chỉ thị GOW/1/87654 của
thống chế Gretchko, bộ trưởng quốc phòng Nga, đã huy động hầu hết các lực lượng
Nga đóng rải rác trên các lãnh thổ của CHDC Đức, Ba Lan, Hung và Bảo Gia Lợi.
Trước hết các đơn vị chiến xa tiêu biểu cho cuộc trấn áp quy mô ở khắp nơi, gồm
4,500 chiến xa, 160,000 quân; năm hôm sau, Tiệp Khắc đã bị 27 sư đoàn, số chiến
xa tăng lên đến 6,300, và 800 phi cơ, 2,000 đại bác, huy động gần 400,000 quân,
như ăn tươi nuốt sống tràn vào chiếm đóng Tiệp Khắc.
Để có thể diễn tả được mức độ hung
bạo của những con qủy đỏ khủng bố đó. Nên hồi tưởng lại năm 1940 Paris bị Quốc
xã Hitler đưa 2,500 chiến xa tấn công, đánh tan nước Pháp trong vòng tuần lễ, cũng
không gấp đôi như số lượng chiến xa Nga, và chỉ trang bị vũ khí nhẹ không như
vũ khí Nga năm 1968. Trong khi đó với dân số 14,3 triệu và diện tích không bằng
phân nửa nước Pháp.
Theo
các nghiên cứu mới nhất khi được biết các hồ sơ được công khai hóa, với con số
chính thức đúng đắn, thì có hàng trăn ngàn người, binh sĩ và thừng dân, trong
đó có những trẻ em mới 13 tuổi hay những cụ già 80, cũng bị lưu đày: 40,000 người
của xứ Ukraine, của Tiệp Khắc bị Hung Gia Lợi chiếm đóng sau khi có hiệp định
Munich năm 1938, và bị sát nhập vào Liên Xô năm 1944; Hung Gia Lợi có 9,000,000
dân, hơn 600,000 người có lẽ đã bị lưu đày vào thời buổi đó, trong khi các con
số thống kê của Liên Xô chỉ có 526,604 ngàn người, con số đó đã được đưa ra sau
khi tới các trại giam và không kể những người chết trong các trại chuyển vận ở
Lỗ Ma Ni (trại Brasov – Terrnsvar –
Timisoara, Maramossziger- Maramures) ở Moldavie (Foscani) ở Bessarabie (Balty)
hay ở Galicie (Sambor). Khoảng 75% các người bị lưu đày đã đi qua các trại đó.
Việc trong các tiểu đoàn lao động của quân đội Hung Gia Lợi. Theo các sự ước lượng
thì số người bị bịnh dịch chết tăng lên gấp đôi.
Xứ
Bảo Gia Lợi lúc bấy giờ có 7 triệu dân, ngay sau ngày 9-9-1944, ngày mà “mặt trận ái quốc” và việc quân Nga tiến
vào nước nầy, cảnh vệ nhân dân và an ninh quốc gia do Nga kiểm soát. Những cuộc thanh trừng dã man
đã làm cho từ 30,000 tới 40,000 người chết, nhất là thành phẩn có uy tín địa
phương. Nhờ có các nhân chứng, sau năm 1989 CS sụp đổ, người ta mới khai quật
những hố chôn tập thể như CS Hồ chí Minh áp dụng Tết Mậu thân 1968 tại cố đô Huế
và năm 1945 Hồ giết Cao Đài tại Quảng Ngãi và các tỉnh Miển Trung.
Bây giờ nói tới tội ác Mao trạch Đông, con qủy
đỏ Hoa Lục:
Dư
luận Âu Mỹ, xem Mao là một “Stalin của Phương Đông” với các tội ác khủng khiếp
gây ra với chính nhân dân Trung quốc. Cuốn sách “Mao’s Great Famine” được trao
giải 20 bảng Anh tại London. Cuốn sách đã ghi lại những dữ kiện lịch sử, một chứng
tích lớn về nỗi đau của loài người mà Mao đã gây ra. Sách đã vượt qua 5 tác phẩm,
gồm các cuốn về Bismarck của Jonathan Steinberg và cuốn về Caravaggio của
Graham Dixon.
Theo
Ben Macintyre, tác phẩm của Dikotter lả sách “không thể thiếu cho những ai muốn
hiểu lịch sử Thế kỷ 20”. Sau khi chiếm được Hoa Lục, chủ nghĩa CS được Mao thực
hiện từ năm 1949- 1958. Giai đoạn đầu không thành công; nạn đói lan rộng. Kế hoạch
Đại nhảy vọt (Great Leap Forward) 1958-1960 đưa tới hậu qủa tai hại, chủ trương
nhảy vọt từ nông nghiệp sang kỷ nghệ lớn. Hậu quả là có khoảng từ 20 tới 40 triệu
người chết đói. Năm 1957 Mao cho mở chiến dich “Trăm Hoa Đua Nở”, cho tự do phê bình nên có nhiều người chỉ trích
chính sách sai lầm của Mao. Mao biết được thành phần bất phục mình, liền cho
thanh trừng tàn bạo khoảng nửa triệu người (500.000) do Đặng tiểu Bình tổ chức.
Năm 1957, Mao chỉ trích Khrushev TBT/CS Nga muốn sống chung hoà bình với các nước
phương Tây, Mao không ngớt lời chửi bới “bọn
xét lại Nga”. Kế hoạch “Đại nhảy vọt
ngũ niên” lần thứ hai 1958- 1963 ra sức sản xuất thép cấp hạ tầng từ làng xã
trở lên. Nhà cửa bị phá làm củi đốt, nồi niêu xoong chảo phải cung cấp nguyên
liệu cho các lò, thành phẩm chỉ là sắt nguyên liệu, phẩm chất quá kém, dù biết
đây là kế hoạch điên rồ nhưng không ai dám hé môi lên tiếng e mất mạng, hoặc bị tống giam với cáo buộc chống Mao.
Vì
số nông dân lao động chuyển qua là công nhân đúc thép nên vụ mùa sút kém, cộng
với thời tiết xấu, hạn hán, rồi lụt lội. Vào tháng 7-1959 sông Hoàng Hà gây lụt
lội khiến cho khoảng 2 triệu người chết vì nạn lụt và nạn đóit. Tại miền quê buộc
phải triệt để theo chính sách của Mao nên vô cùng thiệt hại, chết rất nhiều tại
các nơi như An Huy, Cam Túc, Hà Nam, tỉnh Tứ Xuyên là nơi đông dân và mầu mỡ lại
bị chết đói nhiều nhất.
Kế
hoạch nhảy vọt hai lần của Mao hoàn toàn thất bại, bị ngưng lại đảng phải nhập
cảng gạo từ Úc, Canada, nạn chết đói giảm. Nhà nước chỉ chính thức tuyên bố chỉ
có 14 triệu bị chết đói mà thôi, nhưng trên thực tế theo các nhà học giả ước
tính số người chết từ 20 đến 40 triệu. Năm 1959 Mao từ chức Chủ tịch nước, Lưu
Thiếu Kỳ lên thay, Đặng Tiểu Bình giữ chức Tổng bí thư đảng. Bành Hoài Đức, Bộ
trưởng quốc phòng chống đối kế hoạnh của Mao, bị thanh trừng kết án theo Nga,
giao lại cho Lâm Bưu. Thời kỳ nhảy vọt Mao ở tuổi 60, thời kỳ cách mạng văn hóa,
Mao ở tuổi 70, thời kỳ bang giao với Mỹ, Mao ở tuổi 80. Khi Mao chết thì Đặng
Tiểu Bình thay đổi chính sách cũ qua con đường kinh tế thị trường cứu vãn được sự
sụp đổ nền kinh tế, chính trị của Trung Quốc kéo dài tới nay. Nhờ đó xã hội CS
Trung Quốc đã nhanh chóng phát triển kinh tế, từ chỗ người dân bữa cơm, bữa
cháo tiến đến hai bữa cơm no nhờ các doanh nghiệp Mỹ đầu tư, người dân có công
ăn việc làm từ khi Đặng Tiểu Bình mở cánh cửa kinh tế thị trường. Và cũng từ
đó; cán bộ đảng nhanh chóng biến thành “tư
bản đỏ” và bè lũ tham nhũng, củng cố phe cánh, thanh trừng lẫn nhau.
Mao
có thể là nhân vật quan trọng đối lịch sử thế giới, nhưng ông ta ảnh hưởng tai
hại với Trung Quốc và cả thế giới, đã đày đọa giết hại nhân dân suốt 26 năm thống
trị. Không những thế, Mao đã trực tiếp hay gián tiếp gây ra hai cuộc chiến Triều
Tiên 1950- 1953 và Đông Dương 1950- 1975 làm chết hàng triệu, triệu người gồm
Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên, Pháp & Mỹ. Chính Mao là tội phạm kéo lùi
nước Tàu trở lại thời Trung cổ, chết đói, nghèo khó và lạc hậu cho đến cuối đời
khi gẩn chết mới tỉnh mộng CS, vội bắt tay với Mỹ mới đưa đất nước ra khỏi cơn
tối tăm, lạc hậu. Mà trước đó Mao đã mù quáng dắt dân Tàu “nhảy vọt vào vực thẳm chủ nghĩa CS ảo tưởng” đầy ngu xuẩn và sai lầm.
Ấy thế mà bọn CS “đồng chí” đàn em lập
lăng miếu thờ phụng, bắt dân sùng bái, ca tụng quả thật là điều quái gở. Trong
khi tại Đài Loan, một đảo quốc nhỏ bé thực thi chế độ dân chủ đa nguyên, đa
kinh tế đã biến đảo quốc nhỏ bé nầy lên hàng cường quốc kinh tế Á Châu.
Hồ
chí Minh & tập đoàn tội ac đảng Cộng sản:
Trong
các chế độ tài và CS; thì hệ thống tuyên truyền của chế độ cho đến Sách vở giáo
khoa đều bắt học sinh cùng toàn dân phải suy tôn, thần thánh hóa nhân vật lãnh
tụ như Hồ chí Minh, như Mao, như Kim nhật Thành và Kim chánh Nhật, phải xưng tụng
là: “Vị cha già dân tộc”, “Lãnh tụ kính
yêu”, “Anh hùng kiệt xuất”... Thậm chí sau khi Hồ chết; đã có lần bọn đồ tể
đàn em bỏ công & của, cố vận động UNESCO cho Hồ và danh sách những “Danh nhân văn hoá thế giới” mới kinh tởm
chứ!? Nếu không có các tổ chức đấu tranh yêu nước tại hải ngoại, chống tội ác Hồ
chí Minh và đảng CS. Hồ đích thực là những tên tội phạm diệt chủng, tội ác chống
nhân loại và tội phạm chiến tranh. Đã minh thị những bằng chứng cụ thể trưng dẫn.
Lập tức UNESCO đã loại trừ; không thể nào mù quáng để bị rơi vào một sai lầm như
bọn phản chiến Mỹ thời chiến tranh Việt Nam. Chúng như một sự đồng loã với tội
phạm CS Hà nội cho đến sau biến cố tang thương 30 tháng Tư 1975, họ mới sáng mắt
ra và bắt đẩu sấm hối.
Nhờ
thời đại của trang mạng tin học “thông tin
hóa toàn cầu” chỉ trong giây phút, CS không còn ngăn chận, che dấu, bưng
bít được nữa. Dưới ánh sáng mặt trời công lý; Tội đồ Hồ chí Minh đã từ từ lộ diện
một tên phản quốc, tên tay sai, tên Hán tộc ngụy trá, tên đại đồ tể. Qua các hệ
thống Youtub, những Vedio của LM Nguyễn Ngọc Lễ “Lột mặt nạ tên gỉa trá Hồ chí Minh” mà dân tộc VN cùng nhân loại
nhìn tận mắt, vô cùng kinh tởm. Do đó, tập đoàn phản quốc đảng CS, ra sức kêu
gào và buộc người dân “Ra sức học tập tư tưởng, đạo đức Hồ chí
Minh và làm theo lời bác” đã vô tác dụng, vứt vào sọt rác lịch sử.
Theo
những tờ báo lớn của Anh, One Response và tờ báo Ba Lan, Polska Times có số lượng
truy cập lớn, thì Hồ chí Minh và đảng CSVN là một trong những tên trùm diệt chủng
tàn ác nhất thế kỷ 20.
Những
tờ báo nầy, đã liệt Hồ chí Minh và Lê Duẩn là hai con quỷ đỏ trong lịch Việt
Nam và nhân loại. Hãy xem hồ sơ tội ác Hồ và đảng CS vào 3 thời kỳ theo thứ tự
thời gian như sau:
I.- Vào tháng 8-1945 tại miền
Trung :
Khi
bị 2 trái bom nguyên tử liệng xuống Hiroshima và Nagasaki, Nhật đầu hàng đồng
minh vô điều kiện. Hồ chớp thời cơ; liền quay qua diệt trừ đối lập tại Quảng Ngãi,
các nhà trí thức yêu nước nổi tiếng như Tạ Thu Thâu, các nhân sĩ quốc gia chân
chính như: Cao Trung, Hồ Hóc, Hồ Nhân, Hồ Hồng và hàng loạt những nhà bất đồng
chính kiến khác bị giết và cướp đoạt tất cả tài sản của họ.
Trong
3 tuần lễ đầu, từ ngày 19-8-1945 đã thủ tiêu, tàn sát 2,791 chức sắc và đạo hữu
Cao Đài bằng nhiều hình thức dã man như: chém đầu, chôn sống tập thể, thả biển,
kể cả hình thức “tùng xẻo” như thời trung cổ để răn đe và khủng bố tinh thần
dân tộc. Các chức sắc cao cấp như: Đức Liễu Trần Chơn, Huỳnh Ngọc Trác, Gs Lê Đức,
Gs Hoàng Ngọc Thành và các đạo hữu Nguyễn Trân, Lê Đường, Lê Quang Viện, Nguyễn
Sử, Nguyễn Kinh, Bùi Phụng, Nguyễn Tống, Trần Lương Hiếu, Lê Văn Ký, Phạm Văn Tỵ
v.v...... . Tại Quảng Nam Gs Nguyễn Hồng Phong cùng 5 nhân sĩ khác tại làng Bầu
v.v.... đây là lịnh mật “tận sát Cao đài” từ Hồ ban ra cho Nguyễn
Chánh, Phạm Văn Đồng thi hành.
Tiếp
theo những năm 1949-1954, CS tiếp tục bắt bớ giam cầm, tra tấn tại Bồng Sơn,
Bình Định, một phiên “Tòa án nhân dân”
đấu tố 3 vị Phối Sư: Nguyễn Quang Châu, Nguyễn Đáng, Trần Nguyên Chất, bị kết
án 10 năm tù và 97 đồng đạo khác từ 1 đến 8 năm tù về tội truyền đạo và hành đạo,
cùng các Phối Sư và Giáo Sĩ trong các lao ngục CS, họ bị tra tấn và ngược đãi
mà chết gồm có: Trần Nguyên Chất, chết tại lao xá Quảng Nam, Nguyễn Đình Anh chết
tại lao xá Nghĩa Hành, Quảng Ngãi, Phạm Nghĩa, chết tại lao xá Ha Ra, Phú Yên,
Gs Cao Hữu Chí, xử tử hình bị hành quyết tại Quế Sơn, Quảng Nam năm 1953 v.v.......
.
Tại Miền Nam (Các tỉnh miền Đông và miền Tây):
Cao
đài các tỉnh: Gò Công, Long An, Trà Vinh, Sa Đéc, Mỹ Tho, Đồng Tháp Mười và
Biên Hòa số người bị hành quyết khoảng 30,000 người, bằng hình thức chôn sống
và bắn tập thể, vùi thây chung vào một cái hố. Tại Trảng Bàng, Tây Ninh người
ta tìm thấy hàng trăm xác người gồm đàn bà và trẻ con vô tội v.v...... .
Ngoài
ra, sau vụ hành quyết nhà yêu nước Tạ Thu Thâu tại Quảng Ngãi xong, Hồ tiếp tục
thủ tiêu mấy chục lãnh đạo và cán bộ cao cấp Đệ Tứ Quốc Tế tại miền Nam. Theo
dư luận cho biết các lãnh đạo Đệ Tứ tập trung tại Xuân Trường, cách Thủ Đức mấy
cây số. Có một cuộc thảo luận rôi nổi về vấn đề nên trở về thành áp dụng sách
lược đấu tranh bất bạo động như Gandy,
hay ở ngoài tiếp tục cuộc tranh đấu (lúc bấy giờ Pháp đã làm chủ tình hình ở
Sài Gòn). Đa số không chịu về thành. Thế là lần lượt bị CS dụ bắt đem ra Ba
Lòng Sông (Phan Rí) thủ tiêu hết. Đồng thời với việc săn bắt đức Huỳnh Phú Sổ
không thành, Hồ chiêu dụ Đức Huỳnh tham chính nên bị sa lưới.
Chuyện kể rằng:
ngày 15-4-1947, Huỳnh Phú Sổ đang ở Đốc Vàng Thượng thì có Trần Văn Nguyên,
thanh tra chính trị miền Tây tới mời Đức
Thầy đi Sađéc để hoà giải những vụ xung đột quần chúng CS Việt Minh với Hòa Hảo,
Huỳnh Phú Sổ chấp nhận ra đi với 4 cận vệ võ trang đến nơi hội đàm với Trần văn
Nguyên tại xã Phú Thành, Vùng Đốc Vàng Hạ, quận Tân Phú có Bửu Vinh, tới xin gặp
Ngài và báo cáo: “Hoà Hảo Dân Xả Đảng”
giết người của Việt Minh ở Lấp Vò. Do đó Bửu Vinh yêu cầu Ngài đến đó để giải quyết. Ngài bảo Bửu Vinh cùng
đi đến đó để giải quyết, thì Vinh đòi phải cho bộ đội võ trang của Y cùng đi
thì Y mới đi. Đức Huỳnh Phú Sổ, không ngờ Hồ dụ Ngài hợp tác, tham chính là đã
giăng mẻ lưới để thủ tiêu diệt con mồi khó diệt. Tới nơi đóng quân của Vinh
cách đó không xa. Mặc dù cũng có đông đảo quân PGHH của Ngài án ngữ trong vùng.
Do chủ quan nên Ngài chỉ dẫn theo 1 thư ký và 4 cận vệ quân cùng 1 liên lạc
viên với 3 người chèo ghe. Đến nơi thì trời đã tối, theo tài liệu; vào cuộc họp,
Ngài ngồi ngay giữa bàn, Vinh ngồi đối diện, 4 cận vệ đứng 2 bên Ngài, thình
lình xuất hiện 8 tên sát thủ xông vào đâm 4 bảo vệ, 3 chết ngay tại chỗ, một chạy
thoát ra ngoài bắn loạn xạ một tràn tiểu liên là Phan Văn Tỷ, chạy thoát thân.
Đức Huỳnh vội tắt đèn, căn phòng tối om, ở ngoài viên thư ký và 3 tay chèo
phóng ghe tẩu thoát. Huỳnh Phú Sổ bị Vinh bắt sống. Quân PGHH tại Phú Thành hay
tin liền báo động và toan kéo đến giải vây khoảng 11 giờ đêm. Thì bỗng có một
tín đồ Hòa Hảo mang về một bức thư; nội dung chỉ thị cho hai ông tư lệnh Trần
Văn Soái và Nguyễn Giác Ngộ rằng: “Nếu có
ai chạy về báo cáo rằng tôi (Đức Thầy) bị bắt hay mưu sát thì các ông đừng náo
động. Cấm chỉ mọi đồn đãi, cấm chỉ kéo quân đến tiếp cứu, hãy đóng quân y tại
chỗ. Sáng ngày tôi sẽ cùng ông Bửo Vinh điều tra kỷ lưỡng rồi sẽ về sau. Phải
triệt để tuân lệnh”. Ông Mai Văn Dậu chánh văn phòng đối chiếu chữ từ nét
bút và chữ ký là chính xác của Đức Huỳnh, nên mọi người tuân lệnh. Nhưng có ngờ
đâu cái trò gian manh của Hồ từng áp dụng; chúng khủng bố tinh thần một các
hình thức rùng rợn, rồi đưa ra bản nháp chúng viết sẵn, dụ, hoặc khủng bố, ép đối
tượng viết y như thế. Khi viết xong chúng thủ tiêu ngay, hoặc giữ làm con tin,
tùy bối cảnh chúng thực hiện mưu ma chước quỷ.
Vụ
khác; đến lượt Hồ ra lịnh thủ tiêu Cha Trương Bửu Diệp tại xứ đạo Tắc Sậy, Bạc
Liêu. chuyện kể rằng: trong thời gian năm 1945 – 1946, CS vô thần Hồ chí Minh
khủng bố tôn giáo rất tàn bạo. CS đang hoạt động tại nơi ấy, bà con trong xứ đạo
cũng bắt đầu di tản, Cha bề trên địa phận Phêrô Trần Minh Ký ở Bạc Liêu và Toà
Giám Mục nhiều lần khuyên Ngài tạm lánh, khi nào tình thế cho phép thì trở lại,
nhưng Ngài từ chối và trả lời: “Tôi là
Linh mục sống giữa đoàn chiên và nếu chết cũng chết giữa đoàn chiên. Tôi không
đi đâu hết”. Thế là chiều 12-3-1946, Ngài bị CS bắt cùng với trên 70 giáo
dân bổn đạo tại Tắc Sậy, chúng đem nhốt Ngài chung với bổn đạo tại lẫm lúa của
ông giáo Sự ở Cây Dừa. Ngài thẳng thắn tranh cãi với VC, binh vực quyền lợi của
giáo dân, quyền tự do tôn giáo, Ngài nói
thẳng vào mặt bọn VC rằng: “nếu bỏ tù,
thì bỏ tù Ngài, hoặc giết thì cứ giết Ngài”. thay cho giáo dân, đừng làm
khó họ. Tối đó chúng dẫn Ngai đi và thủ tiêu trong đêm; Ngài đã hiển thánh và báo
mộng cho giáo dân biết Ngài bị VC giết; đến ao ông giáo Sự lấy xác Ngài. Qủa
nhiên; giáo dân đến đó vớt xác Ngài lên thấy dấu chém sau ót ngang mang tai và
thân xác trần trụi như Chúa Giê Su trên Thập giá.
Đối
với tập đoàn CS vô thần, qủy đỏ Hồ chí Minh, thì các tôn giáo chúng thẳng tay tiêu
diệt dưới mọi hình thứci. Từ Linh mục, Giám mục, Sư sãi, Giáo sĩ sống dưới chế
độ CS là thời kinh hoàng nhất. Tiếng chuông chiều đã im bặt trên giáo đường,
trên chùa chiền. Trên đây là tiêu biểu một trên muôn vàn trường hợp tội ác khác
của Hồ và đàng CS từ khi chúng du nhập, tôn thờ tà thuyết Mac- Lê, chủ nghĩa CS
về dày Mã Tổ Hùng Vương từ những năm 1945 tới nay.
II.-Tội
ác diệt chủng của Hồ và ĐCS, qua cãi
cách & đấu tố địa chủ.
“Món
nợ tội ác đó của Đảng Cộng Sản ngày nào mới trả cho Dân Tộc Việt Nam ?”
Theo
thống kê nội bộ của ĐCS (chưa dám công khai hóa) như sau:
-
Số địa chủ thường từ : 51,480 - 82,777
-
Số địa chủ tham gia kháng chiến từ : 290 – 586 .
-
Số địa chủ cường hào ác bá từ : 20,493 - 26,453
Trong
số 3,314 xã miền Bắc, hơn 80 ngàn gia đình địa chủ bị bắt đem ra đấu tố, hành
quyết. Mỗi gia đình ước tính trung bình từ 4 đến 5 người bị liên quan, nên số nạn
nhân có thể lên đến 400,000 người. Họ bị đấu tố mất mạng, mất nhà và tiền của,
số còn sống sót thì đói khát, ốm đau, suy kiệt; gia đình tan nát, đổ vỡ, con
cái thất học và cô lập... . Số bị liệt vào tội cường hào ác bá, bị tra tấn và
hành quyết dưới nhiều hình thức man sợ lên đến 26,000 người, tính cả những gia
đình bị điêu đứng theo, thì con số nạn nhân có thể lên đến nửa triệu người
(500,000).
Chưa
hết, theo thống kê nội bộ được tiến hành ở 2,876 chi bộ ĐCS, gồm có 15 vạn đảng
viên CS (150,000) đã có đến 84 ngàn (84,000) đảng viên, cán bộ cũng bị các đội
đấu tố cáo buộc, và xử lý như (bị tù, tra tấn, làm nhục và bị thủ tiêu) chiếm
47%. Con số khủng khiếp nầy nhiều hơn con số địa chủ bị đấu tố, đảng ra lịnh dấu kín). Số nầy tra tấn tàn khốc hơn
dân thường, cố tình cáo buộc, gán ghép phẩn tử thù địch, chui sâu, leo cao vào
đảng để phá từ bên trong, hầu hết là đảng viên trí thức, có trình độ học vấn.
Bước
đầu, các đội cán bộ cài cách ruộng đất (CCRĐ) và các làng xã áp dụng chính sách
“3 cùng” ( cùng ăn, cùng ngủ, củng tố)
với các bần cố nông, và kết nạp họ thành “rễ”
thành “cành” của đội đấu tố, sau đó
triển khai chiến dịch từng bước như sau: Phân định 5 thành phần theo chỉ thị: (A) là địa chủ, (B) là Phú nông ; (C) trung
nông 1 (sở hữu 1 con bò, 1 con heo, 1 đàn gà); trung nông 2 (sở hữu 1 con heo,
1 đàn gà); trung nông 3; (sở hữ 1 đàn gà và không còn gì cả); (F) bần nông; (G)
cố nông (chẳng có thứ gì). Những gia đình có 2 con heo được liệt vào phú nông.
Tỷ lệ địa chủ được quy định trước là 5,68% dân số nông thôn, mà các đoàn và đội
CCRĐ đều phải truy bức để đôn lên tỷ lệ địa chủ đạt chỉ tiêu 5% như quy định bắt
buộc, gọi là “kích thành phần”. Tất
cả thành phần được phân loại địa chủ, đội cãi cách phân loại một lần nữa: (A1)
là địa chủ gian ác; (A2) là địa chủ thường, (A3) là địa chủ ủng hộ kháng chiến.
Thành phần địa chủ gian ác bị đội CC bắt ngay lập tức.
Cuộc
đấu tố diễn ra được mệnh danh “Ngày long
trời, Đêm lở đất” máu đổ, thị rơi, xương tan, tiếng rên xiết dưới những tay
đao phủ đội CCRĐ là thành qủa cách mạng phi thường của Hồ và ĐCS. - Ta hãy nghe những vần thơ qủy đỏ khát máu của Tố Hữu rợn người không chứ!
Giết,
giết nữa, bàn tay không phút nghĩ
Cho
ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho
đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ
Mao chủ tịch, thờ Stalin bất diệt.
Đây; quả là thơ của quỷ đúng nghĩa, chỉ
có chế độ CS mới sản sinh loại mặt người dạ thú..
Giả
sử chính phủ ra “sắc lệnh” kêu gọi địa chủ hiến ruộng đất cho chính phủ để phân
phát cho nông dân nghèo không có ruộng cày, chính phủ quy định số ruộng được để
lại, phù hợp theo cuộc cách mạng xã hội mới ( không được bồi hoàn). Nếu họ
ngoan cố bất tuân, cố tình chống lại, thì chính phủ mới áp dụng biện pháp chế
tài chứ?. Đằng nầy; ruộng đất của tổ tiên (ông cha họ di sản cho họ thừa hưởng
theo luật lệ cũ, họ phạm tội gì?. Thế mà chế độ CS Nga, Tàu, Việt Nam lại quá tàn
ác, dã man nhất trong lịch sử nhân loại từ Đông sang Tây. Một món nợ tàn bạo “Ngàn năm bia miệng, vẫn còn trơ trơ”.
Chưa hết; ngay sau khi CCRD, Hồ theo mệnh lệnh Stalin và Mao đã cưỡng bức nông
dân đi vào con đường tập thể hóa nông nghiệp; từ làng, xã thành hợp tác xã,
theo kiểu Công Xã Nhân Dân tại Trung Cộng và Nông Trường Sô Viết tại Nga. Đất
đai tập trung vào tay nhà nước qua việc thành lập những hợp tác xã, người nông
dân đi làm công cho như một nô lệ cho ban quản lý HTX, người nông dân ngày càng
trở nên đói rách hơn xưa, khi làm tá diền cho phú nông, địa chủ còn có miếng
cơm, manh áo, khi thiếu thốn chạy đến được họ cứu giúp. Từ khi bác và đảng trao
cái mỹ từ “làm chủ đất nước” làm “xã viên” biến thành nô lệ, kéo cày
thay trâu cho một thứ chủ nhân bót lột kiểu mới đó là ĐCS.
Hợp
tác hóa nông nghiệp, máu không tuôn chảy, nhưng đó là con đường nghèo đói rã họng,
chết dần mòn thiếu dinh dưỡng suốt từ năm 1958 – 1985, nông dân chỉ sống cầm
hơi nhờ mảnh đất 5% dành lại cho từng hộ, trong khi đó 95% diện tích buộc đưa
vào tập thể không sản xuất nổi sản phẩm ngang bằng 5% kia. Mặc cho nông dân nghèo
đói cơ cực, mặc cho vô vàn đảng viên kêu trời về sự phi lý và ngu muội. Nông
dân bị dồn vào thế khốn cùng phải liều mạng xé rào, đề cứu lấy mình, lúc ấy đảng
mới “sáng suốt” mở mắt theo. Ngay sau
khi nông dân thoát khỏi chiếc gông cùm tập thề hóa của ĐCS, được tự do sản xuất
từ sau năm 1986, lập tức sản lượng lúa gạo nhảy vọt vượt kỷ lục. Việt Nam trở
thành nước sản xuất gạo hàng đầu; điều nầy càng chứng tỏ ĐCS đắc tội về phá hoại,
bần cùng hóa nông dân suốt 30 năm xuẩn độn bởi Hồ và tập đoàn ĐCS.
Cùng
với tai họa khủng khiếp ấy; ĐCS cưỡng chế hàng triệu thanh niên vào quân đội
nhân dân xua vào Nam với chiêu bài “giải
phóng”nơi thanh bình, tự do, văn minh, trù phú và no ấm. Thế mà Hồ chí
Minh, Lê Duẩn nghe theo Nga, Tàu gieo tang thương, đẫm máu dân tộc, lại còn dám
khoe cái bản chất nô lệ “Ta đánh đây là đánh cho Nga, đánh cho Tàu”
câu nầy khắc trên lăng mộ Duẩn mới trơ trẽn và mỉa mai không chứ? Rồi Duẩn
xua quân qua Campuchia có hơn 50 ngàn quân bỏ mạng trên chiến trường, và hơn
200,000 bị thương tàn phế. Và hiện nay ĐCS “Đền
ơn đáp nghĩa” với đồng bào ra sao? Hãy nhìn tận mắt; những Mẹ anh hùng, những
Lão thành cách mạng, Mẹ liệt sĩ nối đuôi nhau trước nhà “tiếp dân” tại Hà Nội, Sài Gòn đòi lại ruộng dất, nhà cửa đã bị
quan chức đảng cường hào ác bá CS cướp đoạt.
Vậy
thì ĐCS hãy trả lời ! Cái món nợ tội ác đó khi nào phải trả? Đồng ruộng, đất
đai là sinh mạng của nông dân, và giang sơn của tổ tiên đem máu xương dựng nước,
giữ nước trải qua chiều dài lịch sử 4 ngàn năm văn hiến, nay tập đoàn CSHN dâng
hiến non sông cho Tàu, kẻ thù truyền kiếp
của dân tộc Việt Nam qua “Mật Nghị Thành Đô 1990” phản bội tổ
quốc, phản bội dân tộc, cam tâm làm tay sai cho giặc bành trướng Bắc Kinh, mà mới
đây tên bán nước Nguyễn phú Trọng, TBT/ĐCS công khai tuyên bố không còn che dấu
như sau:
“Tôi đã nhiều lần giải trình rằng
cơ chế Liên Bang XHCN Trung Quốc là một mô hình hiện đại, đã tỏ ra thành công ở
nhiều nơi, tuyệt vời. Ví dụ như Liên Âu (EU), Mỹ (USA). Úc, Cannada. Nay Đảng
và Nhà nước ta đang phấn đấu đề xuất và tham gia Liên Bang XHCN Trung Quốc
(United States of Scocialist China – USSC). Trong khuôn khổ cơ chế nầy, hai Đảng
Cộng sản dễ hòa nhập hài hoà; vấn đề Nam sa, Tây sa được vĩnh viễn giải quyết dứt
khoát trong tình hữu nghị Trung – Việt. Đây cũng là một mặt của quá trình triển
khai phạm trù triết học: “bảo vệ đảng, bảo vệ cơ chế và giúp chủ nghĩa xã hội ở
Việt nam tiến lên với thế giới giàu mạnh, đẹp đẽ bên cạnh đại cường Trung quốc”.
Lâu
nay chúng cố che dấu như mèo “dấu cứt” thì bọn CS Bắc Kinh đã bạch hóa. Đồng
bào và các giới trí thứ trong hàng ngũ đảng viên quân dân chính phẫn nộ trước sự
kiện nầy ĐCS trả lời, thì TBT Nguyễn phú Trọng mới thố lộ.
ĐCS,
còn che mắt được nhân dân? Còn dấu được tội bán nước? Có lòi mặt lũ chuột cống,
“Tư
Bản Đỏ” tham nhũng hút máu đồng bào không? Nông dân và đồng bào Việt Nam
ngày nay gọi chúng là “bọn thái thú mới”
là giặc nội thù, là đảng cướp. Tội ác tày trời ngày càng chồng chất đã đến lúc “Trời không dung & đất không tha” “Hồn
thiêng sông núi và anh linh tiền nhân hờn căm, phẫn nộ” nhất định sẽ thôi
thúc dân tộc vùng dậy tiêu diệt bọn bán nước, hại dân, phản bội Tổ Quốc.
Tóm
lại, trong cái gọi là “cuộc cách mạng
CCRĐ” nêu trên; Hồ và ĐCS rập khuôn quan thầy Stalin và Mao, đã nặng nợ máu
xương với dân tộc cao như núi Thái Sơn; hiện nguyên hình những tên vô thần, qủy
đỏ, tên trùm tội ác ghê gớm nhất với dân tộc Việt. Trong thời kỳ nầy; khắp vùng
nông các tỉnh miền Bắc “trắng xóa những vành
khăn tang, trắng đến lạnh người”. Xã hội Việt Nam từ ấy đảo lộn mọi luân
thường đạo lý: “Con tố cha, vợ tố chồng,
cháu gọi ông bà, cha mẹ bằng “mầy” “thằng
nọ, con kia”. Đó là nền tảng đạo đức “cách
mạng thời đại Hồ chí Minh”. Người học trò gương mẫu chủ nghĩa Mác- Lê là
TBT Trường Chinh (Đặng xuân Khu) cánh tay mặt của Hồ, lôi cha mẹ mình ra đấu tố,
xỉ nhục trước quần chúng bần cố nông.
Liệu
các chế độ vô thần, phản chân lý, phi nhân bản; qua khái niệm chủ nghĩa xã hội,
một phạm trù ảo tưỏng được xây dựng trên nền tảng bạo lực, bạo tàn; cây độc dược
dã man đó, bừng lên lớn dậy tại Nga và Động Âu cũng ngoài 70 năm. Nó đã đâm rễ,
nẩy mầm muốn trường thọ “muôn năm”
thì cớ sao bị trốc gốc lên chứ?!
III.-
Tội Ác của Hồ & ĐCS Trong Trận Mậu Thân 1968 tại Thần Kinh Huế:
Nói
đến CS là phải nói đến tội ác & lừa bịp: Hồ chí Minh và tập đoàn CS khát
máu lợi dụng tinh thần nhân bản của Việt Nam Cộng Hoà luôn luôn “Trọng Đạo Thiêng Liêng” văn hóa ngàn đời
của Tổ Tiên & Dân tộc; nhất là trong dịp Tết Nguyên Đán, ai cũng có ông bà,
tổ tiên trong mái ấm gia đình. Hồ đã đánh lừa ký Hưu Chiến với VNCH trong những ngày Tết Nguyên
Đán để binh sĩ về với mái ấm gia đình. Thì Hồ xua quân tấn công toàn diện các
thành thị miền Nam. Binh sĩ rời đơn vị về ăn Tết với gia đình, Hồ tưởng rằng sẽ
đánh bại được VNCH trong âm mưu nầy, nhưng Hồ đã vỡ mộng, đứt mạch máu não chết
sau đó. Khi quân CS tràn ngập Sài Gòn và các thành thị, chúng không khác gì vào
rọ, đưa chân vào tử huyệt; mà từ lâu quân đội VNCH và Đồng Minh hành quân truy
kích trên các chiến trường, nơi rừng sâu. Chỉ trong những ngày đầu bất ngờ, và
liền sau đó quân đội VNCH về đơn vị, chỉnh đốn hàng ngũ, phản công truy diệt
toàn bộ đại đơn vị cộng quân. Những bộ chỉ huy bị tiêu diệt, binh sĩ chạy tán
loạn ngơ ngác tìm đường thoát thân mà không thấy nhân dân nổi dậy đón tiếp như
Hồ tuyên truyền; mà bị dân Sài Gòn chỉ chúng đưa thân nạp mạng cho những đồn
bót cảnh sát, hoặc quân đội VNCH.
Theo
Trần Bạch Đằng, tên tình báo chiến lươc CS. Trên một bài báo đăng trên tờ Sài
Gòn Giải phóng sau 30-4-1975, Đằng đã đánh giá, nhận định và phê phán rằng: “Võ
Nguyên Giáp đã rơi vào một sai lầm nghiêm trọng trong trận Mậu Thân, một thất bại
lớn lao, nướng quân lên tới con số gần cả 100,000 ngàn. Là một thất bại hoàn toàn vê quân sự, chỉ vớt
vát về mặt chính trị tại Whashington là khơi dậy phong trào phàn chiến Mỹ từ
đám cực tả mà thôi!
Như
trên đã nói; Hồ đưa quân vào rọ, cùng đường, buộc quân CS phải đánh liều mạng,
tìm cái sống trong chết mà bọn chỉ huy tàn ác thường áp dụng. Hơn thế nữa; với
dã tâm quyết chiếm cho bằng được Huế và Quảng Trị làm bàn đạp chiến lươc để xâm
nhập qua ngã vĩ tuyến 17. Quân CS Bắc Việt tại Huế, bị quân VNCH và Đồng Minh
khép chặt vòng vây. Trong thời gian gần cả tháng trời nầy, bọn nằm vùng như
Hoàng phủ Ngọc Tường, Hoàng phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Lê văn Hảo, Nguyễn
Hoá, bọn đồ tể dã man nầy thi hành mệnh lệnh của Hồ tại Hà Nội; những cuộc tàn
sát đẩm máu đồng bào Huế; rùng sợn nhất, khủng kiếp nhất trong lịch sử với khẩu hiệu “giết lầm hơn bỏ sót” của
CS.
Theo
tài liệu thống kê của Pike Douglas như sau:
*
Tổng số dân sự tử vong : 7.600 người chết lẫn mất tích.
*
Bị thương vì chiến trường đôi bên giao tranh: gần 2,000 người.
*
Số tử thi tìm thấy trong đợt đầu sau cuộc chiến : 1,173 người.
*
Số tử thi tìm thấy trong đợt nhì : 809 người.
*
Số tử thi tìm thấy trong đợt ba : 428 người.
*
Số tử thi tìm thấy trong đợt tư : 300 người.
*
Số tử thi tìm thấy trong đợt năm 1969 : 100 người.
*
Số mất tích : 1,946 người (tính đến năm 1970) và một số không ai biết, để khai
báo.
Ngoài ra còn phát giác các mồ chôn tập
thể tại các địa điểm, khi cộng quân rút chạy:
*
21 người tại Trường Gia Hội, 203 người tại Chùa Theravada, 43 người tại Bãi Dâu
(Gia Hội), 25 người tại Cồn Hến, 101 người tại Tiểu Chủng Viện, 6 người tại Quận
Tả Ngạn, 21 người, 25 người Phía Đông Huế, 203 người Lăng Tự Đức, Đồng Khánh,
20 người Cầu An Ninh, 7 người cửa Đông Ba, 4 người Trường An Ninh Hạ, 8 người
Trường Văn Chí, 102 người Chợ Thông.
Số thương vong của quân đội VNCH và
Hoa Kỳ như sau :
*
384 quân nhân tử trận và 1,830 quân nhân bị thương.
*
74 Bộ binh mỹ tử trận và 507 bị thương.
*
142 Thủy quân lục chiến Mỹ tử trận và
857 bị thương.
Số tử vong của quân Cộng Sản Bắc Việt
đếm được như sau :
*
5,000 cộng quân bỏ xác tại trận, số bị thương chúng mang đi không kiểm chứng được.
Số viên chức (Cán, chính VNCH) CS
giết được thống kê như sau:
*
790 Hội viên các hội đồng tỉnh, thị xã và xã, phường.
*
1892 nhân viên hành chánh và 38 cảnh sát cùng hàng 100 thanh niên.
*
1 Linh mục VN là LM Bửu Đồng và 3 LM Pháp dòng Benedicto Thiên An là Lm. Urbain
và Lm. Guy và 1 Lm thuộc Hội Thừa Sai Paris là Cressonnier, và 4 GS người Đức và
vợ chồng BS Gunther Krainick, Bs Raimund Discher, Bs AlterKoster, họ tình nguyện
dạy tại Đại Học Y Khoa Huế. Số người bị VC bắt ngày 05-2-1968. Về sau xác họ được
tìm thấy ở gần chùa Tường Vân.
*
20 người Phi Luật Tân là những viên chức thiện nguyện về công tác (Dân sự vụ).
Cộng
quân sau khi tháo chạy, đã bắt dẫn đi đến vài ngàn người để làm phu khuân vác,
làm con tin và làm bia đỡ đạn để tránh bị quân VNCH và đồng minh pháo kích hay
chận đánh sợ bị chết dân mình để chúng an toàn rút vào rừng tẩu thoát. Khi cộng
quân biến vào rừng chúng giết tất cả những người nầy. Chúng ra lệnh cho những
người bị bắt phải đào hố tránh bom đạn, khi đào xong; cộng quân trói thúc ké
tay chân những người nầy quăng xuống hố rồi lấp đấtchôn sống, không bắn sợ gây
tiếng nổ lộ mục tiêu. Theo bản đồ các vị trí mồ chôn tập thể cho thấy cộng quân
rút theo hai hướng:
Hướng 1: qua đường Nam Giao đến lăng
các vua Nguyễn lên vùng núi. Ngôi mộ tập thể xa nhất về hướng Khe Đá Mài là 428
xác, thuộc quận Nam Hà, cách Huế 40 cây số.
Hướng 2: qua ngã Chợ Cống hoặc Dã Lệ.
Ngôi mộ tập thể nầy xa nhất về hướng Vinh Thái có 135 xác, thuộc quận Phú Thứ,
cách Huế hơn 40 cây số về phía đông Nam. Theo tài liệu thống kê có tất cà 19
khu vực chôn người tập thể một cách tàn bạo của CS. Đây là tội ác của tên quỷ đỏ,
đại đồ tể Hồ chí Minh và tập đoàn CS khát máu có một không hai “vô tiền khoáng hậu trong lịch sử dân tộc”.
VI: - Tội Diệt Chủng, Tội Phạm Chiến Tranh 30-4-1975 và Tội Bán Nước.
Tập
đoàn tay sai, phản quốc CSHN, sau khi ký hiệp định hoà bình Paris năm 1973 chưa
ráo mực. Lợi dụng tình hình chính trị rối ren tại Mỹ, TT Nixon từ chức vụ
Watergate. CSHN, theo lệnh CS Nga, Tàu cùng khối CS quốc tế. Chúng xé hiệp định
Paris; xua quân nhuộm đỏ miền Nam ngày 30-4-1975, khiến đồng bào như ong vỡ tổ;
gần 3 triệu người (3,000,000) chạy ra biển Đông và đường rừng qua ngã Miên, Lào
đến Thái Lan, để trốn thoát CS. It nhất có trên 5 trăm ngàn người chế (500,000)
trên biển khơi và rừng thẳm. Những cuộc cướp bóc, vơ vét tài sản của đồng bào
miền Nam đưa về Bắc; CS tái diễn những cuộc đấu tố điền chủ, tư sản, mại bản từ
thành thị đến nông thôn, cướp đoạt tài sản, nhà cửa, ruộng vườn, giam cầm, thủ
tiêu; đuổi vợ con lên vùng rừng thiêng nước độc nhằm tiêu diệt lớp người nầy mà
chúng buộc tội trí thức, tư sản là kẻ thù dân tộc.
Thành
phần quân, cán chính VNCH; chúng đánh lừa: kêu gọi tham gia học tập cải tạo tư
tưởng và lao động (mang theo lương thực 20 ngày ăn đến 1 tháng). Thế là bị
chúng lùa vào rọ bằng các trại tù tập trung lao động khổ sai khắp núi rừng từ
Nam ra Bắc, rồi từ Bắc vô Nam sau biến cố bị CS Tàu đánh chiếm 10 tỉnh biên giới
phía Bắc năm 1978. Tù chính trị VNCH không có ngày về từ những năm tháng ấy. Đối
tượng bị chúng liệt vào thành phần nguy hiểm bị gông cùm hành hạ, ngược đãi. Tù
lao động khổ sai, đói rét; số người tử vong vì suy dinh dưỡng đưa tới bịnh tật tật,
số khác bị thủ tiêu cũng lên đến con số mấy vạn.
Mãi
cho đến những năm 1981- 1985 thời TT Mỹ (ĐCH) Ronald Regan đắc cử. Một điều kiện
khách quan lịch sử diễn ra: (cơ may bất ngờ mà người tù không bao giờ dám mơ ước
có cơ hội thoát CS đến Hoa Kỳ) Bối cảnh diễn biến như sau: Trong một cuộc công
du của Phạm văn Đồng, thủ tướng CSVN đến Pháp. Tại thủ đô Paris; trong một cuộc
họp báo có đông đủ phóng viên các hảng thông tấn quốc tế tham dự, thì phóng
viên Hoa Kỳ nêu câu hỏi Phạm văn Đồng về
tù “cải
tạo” VNCH, yêu cầu Phạm văn Đồng cho biết lý do giam cầm không bản án,
không có ngày về; mà trước đó chính phủ CS tuyên bố “đi học tập cải tạo lao động từ 20 ngày đến 1 tháng”. Phạm văn Đồng
hơi bối rối, nhưng với ngón nghề gian dối, tráo trở, bịp bợm Y có thừa câu trả
lời từ một tên phù thủy đóng vai hiền triết. Đồng trả lời trước công luận rằng
“Vì chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà
nước CHXHCN/VN muốn đảm bảo an toàn cho thành phần ngụy quân, qụy quyền chế độ
cũ mắc quá nhiều nợ máu nhân dân, nên Đảng và Nhà nước còn phải bảo vệ họ, nếu
thả về sớm e rằng đồng bào còn căm hờ chưa nguôi sẽ gây nguy hại đến họ, chính
quyền không thể can thiệp kịp thời. Và nếu Mỹ muốn nhận, chúng tôi sẽ trả hết
cho Mỹ” Thâm tâm Phạm văn Đồng, nghĩ rằng Mỹ dại gì đi nhận của nợ nầy, nên
câu trả lời nhằm che đậy tội ác, Đồng có ngờ đâu đã trở thành “lộng giả thành chân”. TT Regan, sau đó liền cử tướng Westsey bay sang
Hà Nội nhiều lần để đặt vấn đề và bắt đầu đi vào cuộc thương thảo, trao đổi.
CSHN quen nghề tuyên truyền láo, mở miệng thì giả dối nên đã mắc quai. Do đó, vụ
Phạm văn Đồng tuyên bố, chính trị bộ, TW đảng phải họp mật để mặc cả, đồng thời đưa ra chủ trương và đường lối học tập
cán bộ từ trung ương, xuống tới hạ tầng để quán triệt cái diệu kế “điệu hổ ly sơn” mà chúng cho là nhứt cử
lưỡng lợi; nghĩa là “tống khứ” không
còn phải canh chừng đối tượng ngóc đầu dậy khi thả về; (giữa lúc cuộc chiến
tranh biên giới với Tàu và cuộc chiến tại Campuchia chưa chấm dứt).
Thế
là cuộc định cư tỵ nạn CS của người TNCT Việt Nam (thường gọi là H.O) ra đi có
trật tự giữa Hoa Kỳ và Hà Nội đã thỏa thuận và chính thức bắt đầu. Sau khi phái
đoàn do ông Funsetth dẫn đầu qua Hà Nội họp về việc nhận tù cải tạo vào tháng
1-1989. Và tiếp theo vào tháng 7-1989, Thượng viện Mỹ tuyên bố yêu cầu Hà Nội
trả tự do cho tù cải tạo để Hoa Kỳ đón nhận. Cuộc ra đi đầu tiên vào tháng
giêng năm 1990 là 15 gia đình H.01 bằng chuyến bay hạ cánh xuống phi trường quốc
tế San Francisco. Cuộc định cư tỵ nạn CS kéo dài suốt 15 năm (1990 – 1995 và
thêm 4 năm bổ túc đến năm 2009 mới chấm dứt).
Trong
điều kiện khách quan nào của lịch sử cũng diễn ra một cách bất ngờ, những cảnh
vui, buồn đẫm lệ đau thương, tang tóc cho những người bất hạnh một con số vô
cùng lớn lao.
Theo thống kê của Tổ Chức Quốc Tế Thounsanh
Tear Falling, đáng được tin cậy; từ sau
biến cố 30-4-1975 – 1987 con số kinh hoàng về tội ác ĐCS gây ra cho dân tộc Việt
Nam như sau:
Chết
tù đày trong các trại giam trên dưới 1,040,000 người.
Chết
dưới mọi hình thức ...............................95,000 người
Hành
quyết ................................................. 100,000 người
Chết
trên đường vượt biên trên .................. 500,000 người
Chết
trong mọi tình huống đói rét .............. 750.000 người
Chết
binh tật thiếu thuốc men chữa trị ..... 1,000,000 người.@
Tội ác tày trời nầy của CSHN, chúng có chạy thoát khỏi
số phận đền tội với dân tộc Việt Nam, thoát khỏi số phận sụp đổ như CS Nga và
Đông Âu không ?@
40 mùa Quốc hận
(30.4.1975 – 30.4.2015).
Cao Gia.