Con người tự do là đích đến của giáo dục
Đây là quan điểm của TS
Giáp Văn Dương khi ông đề cập đến việc đất nước ta đang thiếu đi một triết lý
giáo dục...
Quan điểm này được TS
Giáp Văn Dương đưa ra khi ông có điều kiện trải nghiệm ở một số môi trường giáo
dục tại các quốc gia tiên tiến trên thế giới như Anh, tân Gia Ba, Đại Hàn, Áo,
Nhật Bản…
TS Giáp Văn Dương (trái)
cho rằng, khi đã chọn đào tạo con người công cụ làm triết lý thì không có cách
nào làm cho giáo dục tốt lên được
Thi giỏi nhưng làm việc yếu
Bằng sự trải nghiệm của mình, ông nhận định như
thế nào về điểm khác biệt giữa nền giáo dục ở Việt Nam và các nước mà ông có cơ
hội tìm hiểu, đặc biệt là chuyện thi cử?
Tôi đã trải nghiệm một
số nền giáo dục khác nhau. Á, Âu đều có. Rồi cũng nhận ra rằng, Á vẫn là Á mà
Âu vẫn là Âu, khác nhau một trời một vực. Chẳng hạn, Đại Hàn vẫn còn nặng nề về
thi cử. Gần như 100% học sinh đều tham gia luyện thi tối ngày để vào trường
tốt.
Đến mùa thi đại học, các
bà các mẹ lũ lượt vào chùa cầu may cho con cái đỗ đạt. Về mức độ thì còn nặng
nề hơn cả ở Việt Nam, vì ở một nền kinh tế cạnh tranh như thế, và do truyền
thống Nho giáo còn ảnh hưởng mạnh mẽ, không học đại học đồng nghĩa với một
tương lai ảm đảm.
Tân Gia ba cũng vậy. Nhưng Tân Gia ba nói tiếng Anh nên thoáng hơn trong
việc tiếp thu các tư tưởng và phương pháp giáo dục của Tây, đề cao tính thực
dụng và sáng tạo. Truyền thống học để thi của Nho giáo vẫn ảnh hưởng mạnh lên
hệ thống giáo dục Tân Gia Ba, vì cộng đồng người Hoa vẫn chiếm đa số.
Thi cử là một phương
tiện để đánh giá hiệu quả giáo dục, đã trở thành mục tiêu trong các nền giáo
dục châu Á. Nhưng ở bên kia bán cầu thì rất khác. Như Áo hoặc Anh, nơi tôi học
và làm việc, thì học hành thi cử rất nhàn.
Giáo dục có cả một
truyền thống tư tưởng và triết lý bắt nguồn từ triết học, lại được sự hậu thuẫn
của khoa học, và chạy trên nền tảng xã hội dân chủ, nên rất khoa học và hiệu
quả. Đó thực sự là một phương tiện để phát triển con người, chứ không phải là
đày đọa con người. Thi cử trong các nền giáo dục này chỉ là một trong
nhiều phương tiện để đánh giá chất lượng dạy và học, chứ không phải là mục tiêu
của giáo dục.
Nói cách khác, họ hiểu rất rõ học để phát triển
con người. Vậy phải chăng thi chỉ là phương tiện đánh giá học và dạy có tốt
không thôi, thưa ông?
Thi cử là công cụ để
đánh giá chất lượng của việc dạy và học. Ở đây phải nói rõ thêm một chi tiết
nhỏ nhưng quan trọng mà chúng ta hay nhầm lẫn: Thi cử là công cụ
để đánh giá chất lượng dạy và học theo những nội dung và mục tiêu được soạn
sẵn, chứ thi cử không phải là dùng để đánh giá con người.
Những gì được học chỉ là một phần nhỏ, nhưng xu hướng hiện nay đang sử dụng thi
cử như là công cụ duy nhất để đánh giá con người. Đó là điều vừa vô lý, vừa
đáng lo ngại.
Nhìn vào nội dung các kỳ
thi là những người làm giáo dục dày dạn có thể nhìn thấy được hình dáng của
những thế hệ sắp tới, hình dung được phần nào tương lai của đất nước. Thi cử
nếu chỉ chú trọng vào học thuộc thì chắc chắn sẽ tạo ra một đất nước gia công,
vì cả hai đều không cần sáng tạo, mà chỉ cần tuân thủ, bảo sao làm vậy.
Nếu nói về thành tích thi cử với các loại huy
chương quốc tế thì Việt Nam đã gặt hái được khá nhiều. Nhưng tìm một bằng sáng
chế có ứng dụng hay một thành tích khoa học để đời thì lại quá khó. Điều đó cho
thấy, cách học để thi không tạo ra người giỏi. Mà bản thân khái niệm người giỏi
cũng phải xem xét lại. Quan điểm của ông về điều này?
Người giỏi hiện giờ được
coi là người học giỏi, mà cụ thể hơn là thi giỏi. Nhưng
người giỏi thực sự phải là người làm giỏi. Chỉ tiếc rằng những
người làm giáo dục chẳng mấy khi quan tâm đến chuyện này, nên tạo ra những lớp
người thi rất giỏi mà kỹ năng làm việc rất yếu. Tôi muốn nói đến sự thiếu hụt
về kỹ năng mềm của sinh viên Việt Nam, nhất là kỹ năng làm việc nhóm của các em
rất yếu. Mặt khác, ngoại ngữ và kỹ năng độc lập đối thoại, tự chủ để hội nhập
của các em cũng còn non lắm.
Muốn gỡ nút tắc này, thì
không còn cách nào khác là phải trở lại với câu hỏi cơ bản nhất: Học để làm gì?
Vậy theo ông, học để làm
gì?
Học để trở thành con
người tự do chứ còn để làm gì nữa (cười).
Theo UNESCO học để biết,
để làm, để khẳng định bản thân và để chung sống với người khác. Nhận định này
chính xác. Nhưng tôi cho rằng, học để trở thành con người tự do sẽ đi vào bản
chất sâu xa nhất của giáo dục, và vì nó chạm được đến bản chất của
tồn-tại-người, với tất cả tính nhân văn, quyền năng và trách nhiệm mà nó phải
gánh chịu.
TS Giáp Văn Dương trong một chương trình truyền hình cùng với ĐBQH
Dương Trung Quốc và nhà báo Tạ Bích Loan
Tôi cho rằng, khi làm
giáo dục thì phải trả lời bằng được ba câu hỏi: Học để làm gì, Học cái gì và
Học thế nào? Trong ba câu hỏi này thì theo tôi, “Học để làm gì?” là quan trọng
nhất. Trả lời được câu hỏi này, hoặc ở mức thấp hơn là định hướng được câu trả
lời cho câu hỏi này, thì hai câu hỏi kia sẽ tự động được trả lời. Vì thế, học
để làm gì chính là con đường ngắn nhất để đi thẳng vào triết lý giáo dục của hệ
thống, và sau đó là của mỗi cá nhân.
Ở Việt Nam, tôi đã có
khảo sát với số lượng hàng trăm học sinh và sinh viên, trong đó có nhiều em sắp
ra trường, vậy mà khi hỏi học để làm gì, các em vẫn không biết trả lời ra sao.
Đa số các em thậm chí còn chưa bao giờ đặt ra câu hỏi này cho mình.
Hầu hết chỉ học như một
sự lập trình sẵn, đến ngày đến tháng thì đi học, học hết lớp nhỏ thì lên lớp
lớn, hết phổ thông thì thi đại học, mà không hề bận tâm đến mục đích của những
việc đó. Trong lúc vô tâm đó thì các kỳ thi xuất hiện đều đặn và khẳng định tầm
quan trọng của mình trong việc phán xét. Thế là có một mục tiêu: Học để thi.
Thi gì học nấy. Không thi không học. Thi xong thì quên luôn!
Không tin bạn cứ thử trò
chuyện với các sinh viên, những người sắp bước vào đời thì sẽ thấy ngay: Phần
lớn là chưa thi thì chưa học.
Trong học kỳ thì léng
phéng, gà gật chơi bời. Chỉ đến khi thi thì mới tìm mọi cách để nhồi nhét chống
đối cho xong. Dần dần ăn vào máu của người Việt rồi trở thành bản tính của số
đông.
Ở những nền giáo dục
tiên tiến thì giáo dục đào tạo con người nào là rất rõ ràng. Nhà nước hoạch
định một chiến lược giáo dục rất cụ thể cho việc đào tạo con người mà họ hướng
tới, và giải thích rõ ràng và thuyết phục cho toàn dân là tại sao lại như vậy.
Trong khi đó, ở Việt Nam chưa bao giờ một phát biểu tường minh về con người mà
chúng ta muốn hướng tới, tức chưa bao giờ phát biểu tường minh về triết lý giáo
dục của hệ thống mà chúng ta đang vận hành, dẫn đến bế tắc về triết lý giáo
dục.
Vì chưa rõ, hay phát
biểu chưa được tường minh về triết lý giáo dục cho nên thiết kế nội dung chương
trình, phương pháp giảng dạy bị rối, không có linh hồn rõ ràng, và quan trọng
hơn là không thuyết phục được toàn dân tin theo nên phải áp đặt từ trên xuống.
Chừng nào chưa giải quyết được câu chuyện triết lý giáo dục này thì chừng đó
giáo dục còn bế tắc.
Cần con người công cụ hay
con người sáng tạo?
Ông có hình dung được
triết lý giáo dục của Việt Nam không?
Đó là đào tạo con người
công cụ. Chúng ta đào tạo con người chỉ để phục vụ một kế hoạch đã định
sẵn, một thiết kế định sẵn, một ý chí định sẵn, mà không đào tạo ra những con
người biết vượt qua những cái định sẵn đó để tạo ra sự phát triển. Đây
là cách giáo dục phục vụ cho nền kinh tế quan liêu bao cấp tập trung.
Trong thời chiến và
trong thời bao cấp, nền giáo dục này có thể phát huy được ít nhiều hiệu quả với
tư cách là phục vụ trực tiếp những mục tiêu ngắn hạn. Nhưng về dài hạn thì cũng
giống như nền kinh tế quan liêu bao cấp tập trung, nó không có sức sống vì
không trân trọng con người với tư cách là con người tự do và không phát huy
được mọi khả năng của con người.
Vì lẽ đó, về đại thể thì
giáo dục vẫn còn dẫm chân tại chỗ của những năm 80 thế kỷ trước,
trong khi kinh tế đã từ bỏ mô hình quan liêu bao cấp tập trung để chuyển sang
nền kinh tế thị trường nhiều thành phần.
Chính triết lý đào tạo
con người công cụ này, dù được thừa nhận chính thức hay không, đã chi phối toàn
bộ nội dung chương trình và cách thức làm giáo dục ở Việt Nam. Chỉ khi nào vượt
qua, bằng cách tạo ra một triết lý mới, nhân văn và tiến bộ, và phát biểu triết
lý đó một cách tường minh cho toàn dân biết, và sử dụng nó như kim chỉ nam cho
mọi hoạt động giáo dục thì khi đó giáo dục mới có bước phát triển mới.
Nói như vậy thì Việt Nam cần một triết lý giáo
dục như thế nào để thực sự nhân văn và tiến bộ?
Chỉ có con người tự do
mới đủ năng động và sáng tạo để làm chủ thực tế và kiến tạo phát triển. Vì lẽ
đó, con người tự do là đích đến của giáo dục.
Lý do ư? Thì như tôi đã
nói, triết lý đó sáng rõ và đủ lớn để bao trùm và định hướng mọi hoạt động của
giáo dục, và đủ sức để thuyết phục toàn dân hưởng ứng, vì đâu có ai là người
không muốn có tự do, ai là người thích làm công cụ cho người khác? Và quan
trọng hơn, nó rất nhân văn, nó làm cho con người ta trở thành người đúng nghĩa,
cho phép người ta phát huy hết mọi khả năng của mình theo cách sáng tạo nhất,
để từ đó sống đời sống có ý nghĩa và trách nhiệm.
Chỉ với những con người
như thế, chúng ta mới phát triển được, trong một thế giới nhiều cạnh tranh và
biến động.
Trong một thế giới thay đổi nhanh chóng,
đặc biệt là khi đã hội nhập toàn cầu, thì cái gì không thay đổi sẽ trở thành
lạc hậu và bị đào thải. Nếu không sáng tạo để làm chủ, anh sẽ trở thành kẻ làm
thuê cho người khác. Sự thật là chúng ta đang làm thuê cho người khác
ngay trên đất nước mình. Vì mình được đào tạo để trở thành công cụ chứ không
phải là người làm chủ. Sự thật hiển nhiên đó cần phải được thừa nhận để đưa vào
cải cách giáo dục.
Trái với việc đào tạo
con người công cụ làm cho người ta mệt mỏi và suy thoái, một khi triết lý đào
tạo con người tự do được thừa nhận và triển khai rộng rãi, nó sẽ tạo ra sức
sống mới cho toàn hệ thống giáo dục, và sau đó là toàn xã hội. Nó nói rõ cho
mọi người biết, với tư cách là con người tự do thì cuộc đời của anh diễn ra thế
nào là lựa chọn của anh, trong tự do và suy xét, chứ không phải là sự áp đặt từ
trên xuống.
Vì thế anh không có lý
do gì để oán trách và đổ lỗi. Trở thành con người tự do, anh là chủ nhân của số
phận mình, của đất nước mình. Anh không còn lý do gì để bám víu, vì thế anh
trưởng thành thực sự, và tìm được ý nghĩa thực sự của đời sống.
Mở đường cho tự do học thuật
Qua
nghiên cứu chương trình đào tạo của Việt Nam, ông nhận định như thế nào về nội
dung chương trình của ta hiện nay?
Chương trình giáo dục hiện thời của Việt Nam
đang được xây dựng trên cách tiếp cận lấy “học cái gì?” là chủ đạo. Vì thế hiện
chỉ có một bộ sách giáo khoa được dùng thống nhất trong cả nước, chương trình
và phương pháp được kiểm soát chặt chẽ từ trên xuống. Đây là kết quả hiển nhiên
của triết lý đào tạo con người công cụ.
Theo TS Giáp Văn Dương, không thể đầu tư cho hạ tầng
cứng là cầu cống, đường sá mà lại bỏ qua hạ tầng tri thức và hạ tầng con người
trong khi bắt họ phải tự chủ
Nhưng điều này sẽ dẫn đến một kết quả hiển nhiên
khác, là con người do hệ thống giáo dục đào tạo ra chỉ biết “học thuộc”, tức
bảo gì làm nấy, nên chỉ có thể làm thuê chứ ít khả năng sáng tạo để làm chủ.
Nếu giáo dục không thay đổi thì việc Việt Nam trở thành nền kinh tế gia công và
bị kẹt không vượt lên được có sự đóng góp rất lớn của giáo dục.
Giờ thì giáo dục chỉ còn học và thi. Học ngày học đêm, chỉ để thi. Thi
xong là quên hết. Thầy lao đầu vào dạy,
trò lao đầu vào học, mà không cần biết dạy để làm gì và học để làm gì. Tất
nhiên phải trừ những người dạy để kiếm cơm ra (cười).
Về nội dung chương trình đào tạo bậc đại học của mình thì hiện nay quá
lạc hậu. Cứ thử làm một khảo sát bỏ túi mà xem, phần lớn giáo trình của các
ngành công nghệ vẫn là giáo trình được biên soạn bởi những thầy cô đi học ở
Liên Xô (cũ) về. Thậm chí nếu các thầy cô đó đã nghỉ hưu thì giáo trình đó vẫn
sử dụng, vì dùng thế quen rồi, và vì các thầy cô tuy nghỉ nhưng vẫn còn ảnh
hưởng…
Kết quả là về mặt kiến thức, sinh
viên của chúng ta đi chậm hơn so với thế giới hàng chục năm. Chưa kể, trong mấy
chục năm qua, chưa có một cuộc cải cách giáo dục nào ở bậc đại học. Tất cả các cuộc cải cách giáo dục đều
dừng ở bậc phổ thông. Duy nhất chỉ có một lần thành lập trường đại học đại
cương giữa những năm 1990, nhưng đã thất bại. Còn việc dạy theo tín chỉ đã
triển khai trên diện rộng, nhưng về bản chất cũng không khác gì học theo niên
chế ngày xưa, vì có quá ít nội dung để sinh viên lựa chọn.
Giáo dục phổ thông 12 lớp, một lớp chỉ có hơn chục đầu sách, kiến thức
truyền thống, nên dễ làm. Vì thế nên cải cách giáo dục chỉ tập trung ở bậc phổ
thông này. Còn giáo dục đại học quá rộng lớn, lại thay đổi liên tục vì phải cập
nhật kiến thức để cho sinh viên ra trường đi làm được.
Cùng một môn nhưng năm nay thầy dạy bằng giáo trình này, năm sau thầy
lại dạy bằng giáo trình khác cập nhật hơn, vì thế khó làm, nên cải cách giáo
dục bậc đại học bị bỏ qua trong suốt mấy chục năm qua. Không làm được, nhưng cơ
quan quản lý lại muốn kiểm soát về nội dung chương trình, không ủng hộ tự do
học thuật nên không mở đường cho việc sử dụng giáo trình của nước ngoài, nên
chương trình đại học về cơ bản là giậm chân tại chỗ.
Từ
đó đặt ra những điều gì đáng lo ngại cho nền giáo dục nước nhà, thưa ông?
Điều tôi lo ngại nhất là chúng ta không có tự do học thuật ở bậc đại
học, và tự do học đường ở bậc phổ thông. Đã không có tự do học thuật và tự do
học đường thì tất cả sẽ chỉ là công cụ. Trò là công cụ đã đành, nhưng thầy cũng
là công cụ, hiệu trưởng cũng vậy…
Sau đó là nội dung chương trình bậc đại học của phần lớn các ngành quá
mức lạc hậu. Nhiều ngành vẫn sử dụng giáo trình từ những năm 70 - 80 của thế kỷ
trước, tức của thế hệ các thầy cô từ ngày đó biên soạn hoặc biên dịch cóp nhặt.
Vậy thì làm sao cử nhân, kỹ sư của ta có chất lượng, có thể tạo ra một nền kinh
tế cạnh tranh được?
Nhưng việc sử dụng giáo trình của nước ngoài không được khuyến khích, vì
xung đột lợi ích với cả nhà quản lý và bản thân giảng viên, khi giáo trình cóp
nhặt do mình viết ra vẫn được chấp nhận và lại được tính điểm để phong học hàm,
còn sử dụng giáo trình của nước ngoài thì vừa mệt lại vừa “nguy hiểm”. Tình
trạng này có lẽ còn kéo dài, nếu không có sự thay đổi rốt ráo từ phía Bộ GD-ĐT.
Và cuối cùng, nhưng lại đáng ngại nhất, là sự giả dối thể hiện dưới
nhiều hình thức đã trở thành phổ biến trong mọi nhà trường, và rộng hơn là cả
xã hội. Bệnh thành tích chỉ là một phần nhỏ của sự giả dối này mà đã tàn phá
ghê như vậy, thì kết hợp với các hình thức khác sức tàn phá còn lớn đến mức
nào? Lớn đến mức không ai là con người thật, tất cả thành hàng giả hết. Những
người thật còn sót lại, nếu có sẽ bị dồn vào chân tường, và im lặng!
Nếu
bỏ áp đặt để mở đường cho tự do học thuật, tự chủ đại học, ông có nghĩ rằng,
đây sẽ là luồng khí mới cho bước khởi đầu phát triển giáo dục nước nhà?
Đây là con đường duy nhất để phát triển giáo dục. Không còn cách nào
khác. Muốn tạo ra những con
người tự do đầy sức sống, đầy sức sáng tạo thì phải có tự do học thuật và tự
chủ đại học. Nhưng phải lưu ý, tự
chủ đại học không phải là các trường tự lo tài chính, nhà nước không có trách
nhiệm gì như cách hiểu hiện giờ.
Tự chủ đại học phải được hiểu là tự chủ về nhân sự, tự chủ về nội dung
chương trình. Coi tự chủ đại học là tự chủ tài chính thì nguy hiểm và vô trách
nhiệm với giáo dục. Tất nhiên là đang nói
với các trường công. Còn trường tư thì là câu chuyện khác, đó là câu chuyện của
thị trường.
Trong góc nhìn này, Nhà nước phải coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho
phát triển. Đó chính là đầu tư cho loại hạ tầng quan trọng nhất, hạ tầng tri
thức và hạ tầng con người. Cho nên, không thể đầu tư cho hạ tầng cứng là cầu
cống, đường sá mà lại bỏ qua hạ tầng tri thức và hạ tầng con người trong khi
bắt họ phải tự chủ.
Trân
trọng cảm ơn ông!
Văn Hùng - Kiều Khải
TS Giáp Văn Dương sinh năm 1976 (quê ở Lạng Giang, Bắc Giang), tốt
nghiệp kỹ sư ngành Hoá dầu đại học Bách khoa Hà Nội năm 1999, thạc sĩ ngành
Công nghệ hoá học Đại học quốc gia Chonbuk (Đại Hàn) năm 2002, tiến sĩ ngành
Vật lý kỹ thuật Đại học Công nghệ Vienna (Áo) năm 2006. Ông từng làm việc tại
Đại học Liverpool (Anh) và Đại học Quốc gia Tân Gia Ba (NUS).