Ngư dân ở Bãi biển
Mũi Né, Việt Nam. (minh họa)
Câu chuyện ngư dân Việt Nam bị mất ngư trường là câu
chuyện dài. Sự tổn hao từ người đến tài sản dần mòn trong nhiều năm qua bởi nạn
Trung Cộng đâm tàu, bắt người, cướp tài sản cũng đã nói nhiều. Tuy nhiên, hiện
tại, một thảm trạng mới đang đến với các ngư dân Việt Nam, đặc biệt là ngư dân
miền Trung. Mối nguy bỏ nghề để lên bờ và lên bờ thì không biết làm gì để sống
là mối nguy đang hiện ra trước mắt của nhiều ngư dân.
Mất ngoài khơi, mất trong bờ
Một ngư
dân Thanh Hóa tên Thiệu, chia sẻ: “Trường Sa, Hoàng Sa hiện họ vẫn đi,
mấy chục cái thuyền nhưng chủ yếu là ngư dân Sầm Sơn… cứ đến ngày thì ra khơi.
Nhưng ngày càng khó khăn hơn trước, như anh nào biết làm thì còn đỡ còn không
thì khó, ai đầu tư nhiều thì được, bởi gần như ngày càng đầu tư, mở rộng thì
được chứ nhỏ lẻ thì thua.”
Theo ông
Thiệu, tình trạng mất ngư trường đang đến với bất kỳ ngư dân nào bởi hiện tại,
chuyện bắt tàu, đâm chìm tàu hay cướp tài sản không còn là chuyện lạ nữa. Vấn
đề mà ông Thiệu muốn nói đến ở đây là sắp tới, hàng chục ngàn ngư dân Tàu Cộng
sẽ được chính quyền tỉnh Hải Nam ủng hộ, đầu tư để ra khơi đánh bắt trên biển
Đông.
Và câu
chuyện ngư dân Tàu Cộng đâm chìm tàu của ngư dân Việt Nam bấy lâu nay đã quen
thuộc. Ông Thiệu cho rằng những kẻ lái tàu đâm chìm tàu của ngư dân Việt Nam
chưa chắc đã là ngư dân, có thể là tàu hải cảnh cải trang nhằm xua đuổi tàu
Việt và lấn chiếm vùng biển để về lâu về dài, không có ngư dân Việt Nam nào dám
đến gần vùng biển nguy hiểm này. Cuối cùng, Trung Cộng sẽ xác lập vùng đánh bắt
của họ trên chính ngư trường truyền thống của Việt Nam.
Và một
khi xua hàng chục ngàn tàu cá của ngư dân các tỉnh xuất phát từ Hải Nam ra biển
Đông thì khó có thể đoán trước được chuyện gì sẽ đến với ngư dân Việt Nam bởi
khi ra khơi, ngư dân Việt Nam không hề được trang bị bất kỳ loại vũ khí nào để
tự vệ cũng như tàu cảnh sát biển Việt Nam ít
khi nào dám bén mảng đến khu vực tàu Trung Cộng đang trấn áp, hoành hành và
cướp bóc của ngư dân Việt Nam.
Ông Thiệu
cho rằng với đà thả hàng chục ngàn tàu cá đi đánh bắt như vậy, không biết có
bao nhiêu tàu hải giám và quân đội của Trung Cộng sẽ cải trang thành tàu đánh
bắt và với số đông như trên, sẽ không có bất kỳ ngư dân Việt Nam nào dám ra
khơi, dám lại gần các tàu đánh bắt của Trung Cộng bởi họ rất hung hãn, khó mà
lường trước được việc gì sẽ xảy ra.
Trong lúc ngư trường ngoài
khơi đang bị thu hẹp một cách thảm hại bởi sự lấn lướt của Trung Cộng thì hậu
phương của giới đánh bắt Việt Nam hoàn toàn bị trống rỗng. Nghĩa là những âu thuyền
ngày càng chật chội, các điểm đánh bắt và tụ tập tàu thuyền trong bờ đang bị
mất dần bởi các dự án du lịch, các khu phố mới, các chung cư cao cấp… Và một
khi không có đường tiến mà cũng không còn đường lùi, con đường duy nhất cho ngư
dân Việt Nam là bỏ nghề. Nhưng bỏ nghề thì làm gì để sống?
Một ngư
dân đánh bắt gần bờ tên Sâm, người Hà Tĩnh, chia sẻ:”Biển Hà Tĩnh thì làm
nghề biển nhiều, các cảng Vũng Áng và cảng khác cũng có người đánh, tôi đi
không xa lắm, nhưng có người đánh bắt khoảng 5-6 ngày về!”
Ngư
dân chuẩn bị ra biển.
Theo ông Sâm, hầu hết ngư dân đánh bắt xa bờ người
miền Trung từ Bình Định, Phú Yên, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng, Thừa Thiên
Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An và Thanh Hóa đều chọn ngư trường
Hoàng Sa làm chỗ đánh bắt. Và hiện tại, ngư trường Hoàng Sa cũng như Trường Sa
đang xáo động, phần lớn ngư dân đều liều lĩnh đánh bắt để trả nợ ngân hàng chứ
chẳng thể nào làm giàu trên cái ngư trường đầy máu lửa như vậy được.
Bên cạnh một số ngư dân chấp nhận rủi ro để đánh bắt
xa bờ kiếm tiền trả nợ, một số ngư dân khác đã lùi dần vào đánh bắt gần bờ mặc
dù sản lượng rất thấp. Và chuyện đánh bắt gần bờ cũng đã khó khăn hơn rất nhiều
khi các âu thuyền ngày càng chật chội bởi nạn di dời bến bãi lấy đất xây dựng
công trình đang ngày càng nhiều.
Một khi các bãi biển bị thu hẹp bởi các công trình thì
làng đánh bắt gần bờ sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thay vì đánh lưới quét, lưới
chài gần bờ, các làng chài gần bờ phải dong thuyền ra khơi để đánh vì các bờ
biển bị nhà nước trưng thu để bán hoặc cho các tập đoàn xây dựng du lịch.
Hệ quả của việc các bờ biển bị thu hẹp do các công
trình, ngư dân đánh bắt gần bờ bị mất âu thuyền, mất bãi đỗ thuyền, mất nơi
phơi lưới… Và ngư dân đánh bắt xa bờ không còn ngư trường, phải thụt lùi về gần
bờ dẫn đến những ngư trường không quá xa bờ và không quá gần bờ mọc ra. Nơi đây
dành cho việc đánh bắt của cả ngư dân gần bờ và xa bờ. Ngư trường này sẽ trở
nên đông đúc nhưng không có sản lượng.
Ngư
dân sẽ về đâu?
Một ngư dân khác tên Luyện, sống ở huyện đảo Lý Sơn,
Quảng Ngãi, là bạn chài của hầu hết các ngư dân miền Trung trên ngư trường
Hoàng Sa, tỏ ra lo lắng: “Bây giờ mình đi ra ngoài đó Trung Cộng nó
bắt, làm dữ lắm. Tội bà còn, xưa dễ làm ăn chứ giờ đói với nhau hết. Làm biển
giờ không giống như hồi xưa nữa, căng lắm, cực lắm, bà con lo sợ đủ thứ. Giờ mà
nó thấy mình ra là Trung Cộng nó thộp liền à, nó bắn chết luôn chứ không như
hồi xưa nữa. Chỉ còn mấy chiếc ghe đi gần bờ chứ bà con ít dám ra nữa. Cảnh sát
biển thì cũng có đó nhưng cứ thụt thụt trong này thôi chứ làm gì. Họ đâu ra tới
ngư trường của bà con, bà con ngư dân đi tới mấy đảo Hoàng Sa, hồi mà còn làm đó,
còn
cảnh sát biển cứ thụt thụt trong này thôi, mấy cái tàu cảnh sát biển cứ neo đó
rồi ăn, ngủ với chơi thôi chứ họ làm gì đâu!”
Theo ông Luyện, với tình hình hiện tại, khi mà ngư
trường của nhiều đời cha ông để lại bị mất, các bờ biển thì dành cho việc xây
dựng các khu nghỉ mát, các trung tâm ăn chơi và du lịch… thì e rằng hầu hết ngư
dân miền Trung phải đối mặt với việc chuyển loại hình sinh hoạt cũng như loại
hình kinh tế.
Vẫn theo ông Luyện, một số ngư dân huyện đảo Lý Sơn,
Quảng Ngãi đã bán tàu để chuyển sang làm dịch vụ du lịch hoặc sửa chữa, độ tàu
cá thành tàu du lịch chở khách. Mặc dù không biết gì về ngành du lịch cũng như không
biết ngoại ngữ hay không có kiến thức lịch sử, địa lý để thuyết mình nhưng có
vẻ như làm du lịch là chiếc phao cứu sinh của ngư dân.
Ông Luyện cũng tỏ ra rất lo ngại khi nghĩ đến hàng
chục ngàn ngư dân không có hiểu biết về du lịch sẽ chọn ngành du lịch như một
cái phao cứu sinh. Lúc đó, e rằng hoạt động du lịch tại Việt Nam sẽ trở thành
một tập hợp hết sức phức tạp và lộn xộn. Ông cũng khẳng định rằng với tàu
thuyền sẵn có, một khi mất ngư trường, ngư dân cũng chẳng có cơ hội để bán lại
những chiếc tàu cá vì ai mua, mua để làm gì? Chính vì vậy, nguy cơ chuyển loại
hình, biến tàu cá thành tàu du lịch để vớt vát mà nộp lãi cho ngân hàng là
chuyện thấy trước mắt.
Ông Luyện cũng cho biết thêm là hầu hết các bạn nghề
của ông đều nợ ngân hàng, không một ngư dân nào là không nợ ngân hàng nếu đã
làm chủ tàu thuyền. Bởi chỉ riêng việc thất thu khi gặp thời tiết trái khoáy
không thôi cũng đã khiến các chủ tàu thuyền đi vay ngân hàng đầu tư cho vụ sau.
Đằng này ngư trường bị xáo động, ngay cả tính mạng còn nguy hiểm huống gì tài
sản mà không nói đến chuyện thất thoát, thua lỗ.
Chính vì vậy, khi mất ngư trường, ngư dân Việt Nam sẽ
đối mặt với nợ nần và thất nghiệp vì họ không có nghề nghiệp hay kỹ năng nào
ngoài khả năng đánh bắt, đối mặt với sóng gió trùng khơi. Một tương lai nợ nần
và u ám đang trải ra trước mặt ngư dân miền Trung
Nhóm phóng viên tường trình từ
Việt Nam