Những căn bệnh của Việt Nam
Nguyễn
Hưng Quốc
Nghĩ đến Việt Nam, chúng
ta thường nghĩ ngay đến khía cạnh chính trị với những hiểm họa đến từ Trung cộng,
đặc biệt trên Biển Ðông, cũng như họa độc tài toàn trị của đảng Cộng Sản. Tuy
nhiên, ở Việt Nam còn nhiều vấn đề nghiêm trọng khác cần được chú ý, trong đó,
nổi bật nhất là về phương diện văn hóa; trong văn hóa, yếu tố đáng quan tâm nhất
là tính cách của con người.
Trên các trang mạng xã hội, nhiều người đã nêu lên
những tính xấu của người Việt Nam hiện nay, như sự độc ác, thù hằn, tham lam,
hoang tưởng và khoe khoang. Theo tôi, ba tính xấu đáng
kể nhất là ích kỷ, giả dối và vô cảm.
Xin nói ngay, ở đây, có hai điều cần được nhấn mạnh:
Thứ nhất, những tính xấu ấy ở đâu cũng có. Vấn đề chỉ là mức độ. Cần thành thực
nhìn nhận là mức độ ích kỷ, giả dối và vô cảm ở Việt Nam rất trầm trọng và đáng
báo động. Thứ hai, nói tính xấu của người Việt Nam là ích kỷ, giả dối và vô cảm
không có nghĩa là cho mọi người Việt Nam đều ích kỷ, giả dối và vô cảm. Không
phải. Xã hội nào cũng có người tốt kẻ xấu. Vấn đề là tỉ lệ. Không thể phủ nhận
được là ở Việt Nam hiện nay những người tốt, thẳng thắn, ngay thật, biết nghĩ đến
người khác và biết quan tâm đến đất nước khá hiếm.
Tính ích kỷ là một hiện tượng khá mới ở Việt
Nam.
Văn hóa Việt Nam, từ trước đến nay, dưới mắt của hầu hết các học giả, là nặng
tính cộng đồng hơn tính cá nhân chủ nghĩa. Nền tảng của quan hệ giữa người và
người, trước, xây dựng trên làng; sau, trên tình láng giềng, thường đề cao sự
tương thân, tương ái. Người ta sống theo phương châm “tối lửa tắt đèn có nhau.”
Rất phổ biến hiện tượng cả làng xúm vào giúp đỡ nhau trong những ngày có tang
hoặc có giỗ. Mỗi người giúp một tí. Bây giờ thì khác. Người ta thường dửng dưng
trước những nỗi đau của đồng bào và đồng loại. Báo chí thường tường thuật sự kiện
nhiều người bị tai nạn ngoài đường mà không có ai giúp đỡ cả. Người bị nạn nằm
giẫy giụa, ngắc ngoải, thoi thóp, mọi người vẫn mặc kệ, chỉ đứng nhìn, không hề
ra tay cứu giúp. Trong việc làm ăn buôn bán cũng vậy. Biết cho hóa chất độc hại
vào thực phẩm sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người khác, người ta vẫn
làm, miễn là có lợi. Trong ngành du lịch, biết lừa người khác sẽ gây ảnh hưởng
xấu đến hình ảnh thương hiệu và đất nước, người ta vẫn làm.
Nhưng ích kỷ nhất là giới lãnh đạo đảng Cộng Sản.
Nói chuyện với các cán bộ vào ngày 4 tháng 3 vừa qua, bí thư Thành Ủy Hà Nội,
ông Hoàng Trung Hải cho việc cải cách hành chính trong địa phương không có gì
là khó. Theo ông, nguyên nhân chính là sự ích kỷ. Ông kêu gọi: “Hãy bỏ cái tôi, bỏ cái ích kỷ của từng cơ
quan, tổ chức ra ngoài là chúng ta làm được cải cách hành chính.” Nhưng sự
ích kỷ không phải chỉ xuất hiện ở giới lãnh đạo địa phương. Ngay giới lãnh đạo
cao cấp nhất trong đảng và trong cả nước cũng vậy. Biết việc độc quyền sẽ gây
tai họa cho đất nước, người ta vẫn làm. Biết nhiều chính sách làm hàng chục triệu
người dân mất tự do cũng như mất quyền làm người, người ta vẫn làm. Biết tham
nhũng làm kinh tế lụn bại, dân chúng lầm than, người ta vẫn làm. Biết việc duy
trì quan hệ hữu nghị “viễn vông” (nói theo chữ của Nguyễn Tấn Dũng) chỉ dẫn đến
họa mất chủ quyền trên biển và đảo Việt Nam, người ta vẫn làm. Không đâu sự ích
kỷ ấy thể hiện rõ cho bằng trong câu châm ngôn “còn đảng, còn mình” của công an: Người ta chỉ nghĩ đến mình, còn đất
nước thì mặc kệ.
Ðặc điểm thứ hai trong tính cách của phần
lớn người Việt Nam hiện nay là giả dối. Trên trang blog và
facebook của mình, Giáo Sư Nguyễn Văn Tuấn,
hiện sống tại Sydney, Úc, viết: “Thói giả
dối ở Việt Nam lên ngôi và nó hiện diện hầu như trong tất cả giai tầng. Học
sinh nói dối. Người lớn nói dối. Giới khoa bảng cũng nói dối. Càng học cao càng
nói dối nhiều. Người làm chính trị đạo đức giả và nói dối. Giới kinh doanh gian
dối. Học hành giả dối. Khoa học giả dối. Có thể nói
không ngoa rằng xã hội Việt Nam hiện nay là một xã hội giả dối.”
Tôi chỉ xin nói thêm: Cũng giống như sự ích kỷ, thành phần giả dối nhất
ở Việt Nam hiện nay là giới lãnh đạo. Họ
nói dối về thực trạng đất nước: thay vì nhìn nhận Việt Nam hiện nay rất nghèo
nàn và lạc hậu, họ cứ ra rả tuyên truyền là đất nước văn minh và tiến bộ. Thay
vì nhìn nhận Việt Nam hiện nay là độc tài và toàn trị, họ huênh hoang tuyên bố
là Việt Nam tự do và dân chủ, thậm chí, “dân
chủ đến thế là cùng.” Thay vì nhìn nhận chính đảng Cộng Sản là nguyên nhân
gây nên tình trạng chiến tranh tàn khốc trước đây cũng như tình trạng trì trệ
hiện nay, họ cho đảng của họ có công làm cho đất nước giàu mạnh và rực rỡ hơn hẳn
bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử. Thay vì nhìn nhận Trung Hoa cộng sản là mối
hiểm họa lớn nhất của dân tộc, họ vẫn lặp đi lặp lại phương châm “4 tốt” và “16
chữ vàng” trong quan hệ với Trung cộng. Họ nói dối ở khắp nơi. Trong hệ thống
tuyên truyền cũng như trong hệ thống giáo dục: Ở đâu cũng đầy những dối trá.
Hậu quả của hai tính cách ích kỷ và giả dối
ấy khiến đa số người Việt Nam đâm ra vô cảm đối với đất nước. Kinh
tế trì trệ: mặc kệ. Ðạo đức suy đồi: mặc kệ. Xã hội băng hoại: mặc kệ. Giáo dục
càng lúc càng xuống dốc: mặc kệ. Ðất nước đối diện với nguy cơ bị mất biển đảo
cũng như độc lập: mặc kệ. Những cuộc biểu tình với những lý do chính đáng nhất
như lên án các hành động gây hấn ngang ngược của Trung cộng và kêu gọi bảo vệ
chủ quyền của Việt Nam chỉ lôi kéo được một số rất ít, may lắm là vài trăm trên
tổng dân số hơn 90 triệu người. Qua các thước phim quay cảnh các cuộc biểu tình
tại Việt Nam, chúng ta không chỉ thấy sự ít ỏi của những người thực sự quan tâm
đến đất nước mà còn thấy rõ sự hờ hững và dửng dưng của khách qua đường: Không
có dấu hiệu cho thấy bất cứ một sự đồng cảm hay đồng tình nào cả.
Theo tôi, ba tính xấu vừa kể là những thử thách lớn
nhất của người Việt Nam hiện nay. Với ba tính cách ấy, chúng ta không hy vọng
gì chế độ Cộng Sản sẽ sụp đổ sớm. Ngay cả khi chế độ Cộng sản sụp đổ, ba tính
cách ấy cũng sẽ trở thành những trở ngại to lớn cho quá trình xây dựng một đất
nước phát triển, ổn định, dân chủ và độc lập.