15.04.2016

Các ý kiến về ngày mất nước và ngày Giải phóng

Các ý kiến về ngày mất nước và ngày Giải phóng

Lời Mở Đầu: Ngày 30.4.2016 năm nay đánh dấu 41 năm của Ngày Mất Nước (không phải  “Ngày Giải Phóng”, vốn là từ ngữ tuyên truyền của Đảng CS Hà Nội) khi thành phố Sàigòn thân yêu của VNCH thất thủ. Công dân Sàigòn không thể quên sự tuẫn tiết oanh liệt của Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long khi ông chọn cách tự sát (tự bắn vào đầu) rất đúng chỗ và đúng lúc: Chết ngay dưới chân Tượng Đài Thủy Quân Lục Chiến, trước tòa nhà Quốc Hội VNCH, ở trên đường Tự Do, vào đúng Ngày Mất Nước 30.4.1975!!! Trung Tá Long cùng với vô số tướng tá và binh sĩ VNCH khác đã can đảm hy sinh hoặc tuẫn tiết khắp nơi trên đất nước Miền Nam của Tự Do và Dân Chủ, để từ chối bị giải phóng và bị đày đọa bởi Miền Bắc Cộng Sản gian ác, độc tài. Nhân dịp Ngày Mất Nước 30.4, thử lắng nghe các ý kiến của một số người về Ngày Mất Nước và nhất là ý nghĩa thật sự của “Ngày Giải Phóng”, hầu xử dụng từ ngữ này cho chính xác với nội dung của nó, thoát khỏi sự tuyên truyền lừa dối đã quá lâu. 

The Truth must come out.

1) Nhà văn Duyên Anh nổi tiếng của Miền Nam VN: 

Đã nhận định về nơi nằm xuống trong Ngày Mất Nước của Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long là “nơi biểu tượng Trái Tim đang thoi thóp của Miền Nam. Ông đã nằm xuống đó để chấm dứt nhịp đập Trái Tim Ông. Ông dâng hiến máu tươi và mạch sống cho Tổ Quốc. Khỏi cần phải luận bàn dông dài, cả thế giới cùng công nhận Ông Long đã bình tĩnh sửa soạn cho cái chết từng chi-tiết. Ông mặc sắc phục, cấp bậc chỉnh tề, thẻ căn-cước cài trong túi áo. Trước lúc bắn vào đầu, Ông Long đứng nghiêm, chào kính Tượng Ðài Thủy Quân Lục Chiến VNCH, rồi khoan thai nằm xuống. Chỉ một phát súng dứt khoát và chính xác, Ông Long anh dũng đền ơn nước…” đúng vào Ngày Mất Nước.

2) Pháp-Việt Tự Điển của Đào Duy Anh, ở Miền Nam, năm 1957: 

Libération (danh từ) là Sự Giải Phóng và Libérer (động từ) là Cho Tự Do, Cởi Mở, Phóng Thích, Tha Nợ…

Nhưng sau “ngày giải phóng” 30.4.1975, tất cả dân Nam (đã có tự do trước đó) nay bị kiểm soát và khống chế 100% bằng chính sách Hộ Khẩu gắt gao của Miền Bắc khắc nghiệt (với 3 mục tiêu chính của Đảng CS: Kiểm soát số người trong mỗi gia đình, quy định số lượng thực phẩm của từng nhà, và  giới hạn hoặc tước đoạt Quyền Tự Do Đi Lại của mỗi cá nhân). Muốn đi đâu phải xin phép công an khu vực VC ở Phường Khóm, phải khai rõ đi đến địa chỉ nào, gặp ai, để làm gì, trong bao lâu…? Ai vào nhà mình cũng phải khai báo và xin phép trước, dù chỉ vài ngày. Nếu không được chấp thuận thì không thể đi đâu và không được cho ai vào nhà trú ngụ, nhất là ban đêm. Nếu trái lệnh thì bị ghép tội “phản động”, nghĩa là bị tước Hộ Khẩu, bị cắt phần ăn, bị mất việc làm, bị tù, bị thủ tiêu… Nên ngay sau Ngày Mất Nước, hiếm có ai dám cho các anh cựu chiến sĩ VNCH vào nhà tạm trú, nhất là các anh tù nhân mới trở về, sau Tù Tập Trung (Concentration Camps), nghĩa là sau khi đã bị cắt đứt Nguồn Sống và sự nâng đỡ thương yêu của gia đình, bị khủng bố tinh thần, bị làm lao động khổ sai hằng ngày, mà không được ăn uống vừa đủ và không thuốc men khi bệnh tật…

Rõ ràng, Đảng muốn các anh phải tự hiểu “số phận tù tội” của mình vì đã theo “Mỹ Ngụy”, để các anh tự dứt bỏ gia đình ruột thịt (Đảng chia để trị), phải ra khỏi thành phố, đến các nơi hoang dã không điện nước hoặc hiểm độc mà sống, hay chết dần mòn ở đó, hoặc nếu có phương tiện thì tìm đường vượt biên… Như vậy, vì không có Tự Do, Cởi Mở, Tha Nợ, và nhất là còn Bị Tù khổ sai, chứ không được Phóng Thích (theo Ông Duy Anh, ở trên) sau Ngày 30.4.75, nên không thể gọi đó là “Ngày Giải Phóng”, mà phải gọi là Ngày Mất Nước, tức là Ngày Mất Tự Do của Miền Nam VN.
    
3) Thư của một Cựu “giải phóng quân” từ Miền Bắc CS:

“… Sau khi thống nhất đất nước, tôi khoái Miền Nam quá xá, rồi xin chọn nơi này làm quê hương luôn đó… Nhờ ở lại Miền Nam, sống giữa đồng bào Miền Nam mà tôi đã chuyển biến từ sai lầm đáng tiếc là căm thù khinh bỉ Ngụy thành khoái cụ tỷ Ngụy, bái phục văn hóa Ngụy, và nhất là Quân đội Miền Nam có Anh Hùng Hải Quân Ngụy Văn Thà, đánh Tàu Cộng, trong khi thủ tướng CS Miền Bắc, Phạm văn Đồng, tự cho mình là chân chính, lại ký Công Hàm Bán Nước năm 1958, dâng Hoàng Sa và Trường Sa cho Tàu Cộng…”  Và kết luận: “… Nhờ chiếm được Miền Nam mà Miền Bắc được giải phóng: Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy nay đã hiển nhiên, không thể chối cãi.”

4) Phan Huy, một thi nhân nổi tiếng ở Miền Bắc:

1. “Cảm tạ Miền Nam phá màn u tối!!!             
         Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh
         Biết được Nhân Quyền, Tự Do, Dân Chủ          
         Mà đảng từ lâu: bưng bít dân mình.

2. Cảm tạ Miền Nam khai đường chỉ lối!!!
        Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng                     
        Của Hùng Vương, quốc tổ, giống Rồng Tiên,
         Chớ không là Cac Mac và Le Nin ngoại tộc.

3. Cảm tạ Miền Nam mở lòng khai sáng!!!     
               Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu.                
             Mà trước đây, tôi có biết gì đâu…          
             Ngoài Trung Cộng và Liên Xô “vĩ đại”.

4. Cảm tạ Miền Nam một thời làm chiến sĩ!!!
            Chống lại Cộng Nô cuồng vọng xâm lăng
              Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỷ
           Dù không thành công, cũng đã thành danh.”    
   
Sau khi vào Nam, tận mắt nhìn thấy người dân Miền Nam và cuộc sống bình yên, chân thật của họ, không hề giống như lối tuyên truyền nhồi sọ dân Bắc của Đảng đã mấy chục năm (Miền Nam tăm tối, bị Mỹ Ngụy kìm kẹp, không có học hành và văn hóa gì cả), ông Phan Huy thức tỉnh:

          “Đến Sài Gòn, tưởng say men chiến thắng,     
       Nào ngờ đâu, sụp đổ cả niềm tin.        
            Khi điêu ngoa dối trá: hiện nguyên hình
       Trước thành phố: Tự Do và Nhân Bản
.”

5) Tiến sĩ Miền Bắc Lê Hiển Dương, nguyên hiệu trường Đại Học Đồng Tháp:

Tôi bắt đầu nghi ngờ với cụm từ “giải phóng Miền Nam” … Rồi những trận Đổi Tiền để đánh tư sản Miền Nam, rồi nhiều nhà cửa của đồng bào Miền Nam bị tịch biên, rồi hàng triệu đồng bào bắt đầu bỏ nước ra đi, nhiều giáo sinh của trường chúng tôi cũng vắng dần theo làn sóng đi tìm Tự Do đó… Tôi bắt đầu hiểu đích thực ý nghĩa của cụm từ “giải phóng Miền Nam” và bắt đầu cảm thấy xấu hổ cho bao nhiêu năm sống trong niềm ảo vọng mù quáng của bản thân… mà dù ở chừng mực nào cũng được xem là thành phần trí thức trong xã hội (Miền Bắc)…

6) Nhà báo Miền Bắc Trần Quang Thành:

Nhìn lại 40 năm cuộc chiến gọi là ‘chống Mỹ cứu nước ‘nhưng thực tế nó lại là một cuộc chiến về ý thức hệ của những người Cộng Sản lừa dối nhân dân ta, thực tế nó là một cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Những người chóp bu của Cộng Sản đã lừa dối nhân dân Việt Nam và lừa dối cả nhân dân toàn thế giới. Họ kích động tinh thần dân tộc của người dân Miền Bắc là: Miền Bắc là tiền đồn phía Đông Nam Á của phe Xã hội Chủ Nghĩa. Nhưng thực chất bây giờ chúng ta mới hiểu đây là một cuộc chiến của những người Cộng Sản Miền Bắc Việt Nam, tay sai cho 2 nước Cộng Sản là Nga Sô và Trung Cộng, để mà thực hiện ý thức hệ Cộng Sản bành trướng trên toàn thế giới, chứ không phải là một cuộc chiến tranh Vệ Quốc như họ từng tuyên truyền là ‘chống Mỹ xâm lược’. Tôi thấy đó là một sự lừa dối và phản bội.”

Tóm lại, đa số người Bắc có Hiểu Biết và tin nghe Sự Thật (dù Lời Thật mất lòng Đảng) sau khi đã chứng nghiệm thực tế trong Nam và nhìn thấy cuộc sống khá chân thật của người Nam hằng ngày, họ đã thức tỉnh: Nhận ra ý nghĩa tuyên truyền lừa bịp của “Ngày Giải Phóng” 30.4 (Miền Nam vốn đã đang yên ấm và sung túc trước năm 1975, không cần “sự Giải Phóng” của Đảng Ba Đình gian ác).  Xin kết thúc bằng ý kiến của Cựu Tổng Thống Cộng Hòa của Mỹ, Ronald Reagan, về Sự Tự Do: “Tự Do không bao giờ có thể tiếp diễn chỉ sau hơn một thế hệ chiến đấu rồi bỏ qua. Trước đây, chúng ta đã không thể trao truyền Tự Do cho con cháu chỉ qua dòng máu. Tự Do phải được chiến đấu, bảo vệ, và được giao tiếp tận tay cho con cháu qua dạy dỗ thực sự, để chúng tiếp tục chiến đấu cho Tự Do. Nếu không, một ngày nào đó, chúng ta phải trải qua những tháng năm cuối đời, buồn rầu kể cho con, cháu nghe những gì trong quá khứ huy hoàng trước đây, đã có lần, một thời nào đó, trong nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, dân chúng đã từng được tự do…”



Viết cho Ngày Mất Nước 30.4.1975.
GS Trần Thủy Tiên
M.A. in Human Sciences