"Việt Nam muốn độc lập thì phải dân chủ hóa.
...người dân sẽ không mãi mãi chấp nhận bị đàn áp. "
Nguyenthituhuy
Nguồn ảnh: Internet
Cách đây không lâu, Lê Anh Hùng có đặt ra một
vấn đề ở tầm chiến lược : « Cách mạng dân chủ ở Việt Nam: từ dưới
lên hay từ trên xuống? », đồng thời đưa ra một số phương án về
khả năng chuyển đổi dân chủ ở Việt Nam.
Đây là một chủ đề lớn, và cần thảo luận
rốt ráo, nhất là trong tình trạng khẩn cấp hiện nay, khi chủ quyền
và môi trường đều bị đe dọa. Sẽ có những người cho rằng, đối với
Việt Nam vấn đề cấp bách là thoát Trung, và tạm thời cần dẹp qua
một bên vấn đề nhân quyền và dân chủ. Tuy nhiên cũng sẽ có người nghĩ
rằng, Việt Nam muốn độc lập thì phải dân chủ
hóa. Tôi cũng nghĩ theo hướng này, Việt Nam không thể có độc
lập, không thể cứu môi trường nếu không dân chủ hóa. Nhận định này
có lẽ được củng cố khi ta quan sát những gì đang diễn ra, những cách
thức xử lý của chính phủ về các vụ đồng bằng sông Cửu Long, Vũng
Áng, Formosa…
Tiếp tục suy nghĩ về các khả năng và nhất
là về điều kiện cho sự dân chủ hóa ở Việt Nam, trong bài này tôi sẽ
đề cập đến một điểm, một trong cả chuỗi vấn đề cần quan tâm phân
tích : bộ phận nào trong xã hội có thể
đẩy nhanh quá trình dân chủ hóa trong tình thế cấp bách này?
Câu trả lời mà có lẽ nhiều người nghĩ đến
đầu tiên là : bộ phận cấu thành phong trào
dân chủ. Dĩ nhiên, để định nghĩa phong trào dân chủ không đơn
giản. Dù vậy, cũng có thể xem là từ « phong trào dân chủ »
được hiểu là phong trào của những người trực diện đấu tranh, những
người bất đồng chính kiến, những người từng bị giam giữ, những
người thường xuyên trực tiếp xuống đường… Không thể phủ nhận đóng
góp to lớn của những người này trong quá trình thức tỉnh lương tri
và làm thay đổi nhận thức. Thực sự là những hy sinh của họ, những
nỗ lực của họ đã có một tác động quan trọng đối với sự chuyển
động xã hội. Sự can đảm của họ đã kêu gọi sự can đảm của người
khác, khiến cho dần dần càng có nhiều người bước qua lằn ranh của
sự sợ hãi.
Câu trả lời thứ hai mà có thể nhiều người
cũng đồng tình : xã hội dân sự. Cụ thể là các tổ chức xã hội dân sự. Sự hình thành của các tổ
chức xã hội dân sự ở Việt Nam đã đánh dấu một bước chuyển biến
mới của phong trào dân chủ. Giờ đây, các cá nhân đã tập hợp lại với
nhau trong một số tổ chức. Và dĩ nhiên, sức mạnh của một tổ chức
bao giờ cũng lớn hơn sức mạnh của một cá nhân. Đồng thời sự tồn
tại của các tổ chức xã hội dân sự gợi lên niềm hy vọng rằng một
ngày nào đó chính phủ độc tài sẽ cho phép hợp pháp hóa các tổ
chức hội đoàn độc lập. Dĩ nhiên, đấy là một trong những điều kiện
nền tảng để xây dựng một xã hội dân chủ.
Tuy nhiên, câu trả lời mà tôi tìm thấy hơi
khác. Dù phải chịu đựng nhiều hy sinh, dù có đóng góp quan trọng
trong tiến trình dân chủ hóa, nhưng vai trò thúc
đẩy NHANH quá trình dân chủ không thuộc về các hội đoàn xã hội dân
sự, các cá nhân bất đồng chính kiến hay các nhà tranh đấu (như
từ vẫn thường được dùng ngày nay). Tại sao ? Tại vì trong quan
niệm của xã hội Việt Nam hiện nay, họ bị xem là quá cực đoan (một
người chỉ viết lách ôn hòa như tôi mà cũng bị xếp vào diện cực đoan
thì những người đã từng bị kết án tù sẽ còn bị xem là cực đoan
đến mức nào). Điều này, cùng với sự đàn áp của chính quyền khiến
họ bị đặt vào tình thế cô lập.
Mặc dù họ liên kết lại với nhau trong một số
hội đoàn, nhưng vẫn chỉ là họ với nhau. Nghĩa là họ không có cơ hội
để tiếp xúc và để tác động trực tiếp với cái khối đông đảo quần
chúng trong xã hội. Tác động của họ chủ yếu thông qua việc viết
lách, thông qua các công bố trên mạng. Các cuộc tiếp xúc chỉ diễn ra
giữa họ với nhau, trong những nhóm rất nhỏ. Điều này thật khác với
Aung San Suu Kyi, khi mà bà có thể làm những cuộc diễn thuyết về dân
chủ trước hàng ngàn người. Cũng có một bộ phận trong giới đấu tranh
có thể có tác động trên diện rộng, đó là bộ phận công giáo. Tuy
nhiên, các bài giảng ở nhà thờ không thể đi ra ngoài phạm vi tôn
giáo, nghĩa là các linh mục cũng không thể giảng các bài giảng về
dân chủ, mà chỉ có thể lồng một số nội dung nhất định nào đó vào
các bài giảng thánh lễ.
Ngoài ra, một điều khác mà ta có thể nhận
thấy là cuộc đấu tranh ở Việt Nam đang chủ yếu
đi theo hướng phản ứng lại các chính sách bất cập hay ngăn chặn các
việc làm sai trái của bộ phận công quyền. Phán kháng, tố cáo, kiến nghị, một số cuộc biểu tình… là những dạng thức
hoạt động chính. Dĩ nhiên, những việc này rất cần thiết và quan
trọng, và luôn cần thiết và quan trọng.
Nhưng việc truyền bá kiến thức về
dân chủ hầu như rất ít được thực hiện. Hiện nay cũng
chưa có một tổ chức nào chuyên tập trung vào việc này. Họ không lựa
chọn việc truyền bá kiến thức về dân chủ, quảng bá ý nghĩa của dân
chủ, giới thiệu tầm quan trọng của dân chủ, như một nội dung hoạt
động chính. Dĩ nhiên, có một số chương trình như giới thiệu về quyền
con người. Nhưng thực sự rất ít những chương trình như thế. Và nhất
là bản thân các hội đoàn dường như cũng không xem việc phải xây dựng
một lề lối làm việc dân chủ, một cơ cấu tổ chức dân chủ, là quan
trọng.
Nghĩa là, nếu lấy lại một ý mà tôi từng
nói trong một bài viết trước đây thì ta có thể
nói, cuộc đấu tranh hiện nay đang thiên về hướng chống lại thể chế độc
tài, chứ chưa xem trọng việc phải xây dựng các kiến thức, các giá
trị và các chuẩn mực về dân chủ, chưa làm rõ được ý nghĩa
và vai trò của dân chủ trong đời sống xã hội. Và như thế thì khối
đông quần chúng trong xã hội sẽ không tìm thấy lý do để ủng hộ các
nhà tranh đấu, họ sẽ không biết tại sao họ cần ủng hộ các nhà tranh
đấu, trong khi mà dù xã hội nhiễu nhương dường như họ vẫn đang có
cuộc sống ổn định. Và thực ra, nếu người dân hỏi rằng : « Dân chủ ích lợi gì trong việc bảo vệ
Trường sa Hoàng sa ? », « dân chủ ích lợi gì trong việc giải độc biển Đông ? »,
« dân chủ có cứu được phụ nữ
Việt Nam phải bán mình đi làm thê thiếp cho đàn ông nước ngoài
không ? »… thì những người tranh đấu sẽ trả lời như thế
nào ?
Nói điều này thì một người như tôi phải tự
nhận trách nhiệm về phần mình. Tôi cũng là người tham gia phong trào,
và tôi cũng chưa làm được gì để cải thiện tình hình này, mặc dù
có lẽ tôi có điều kiện để làm việc này hơn một số người khác.
Paris, 7/7/2016
Nguyễn
Thị Từ Huy
Bộ phận nào trong xã hội có thể đẩy nhanh quá trình
dân chủ hóa ?(II)
nguyenthituhuy
Nguồn ảnh: Internet
Khi tiếp tục suy nghĩ về câu hỏi :
« Bộ phận nào trong xã hội có thể đẩy nhanh quá
trình dân chủ hoá ? », tạm thời tôi đứng trước mấy câu trả lời
sau đây :
1/ Nội bộ lãnh đạo cao cấp của Việt Nam, nếu họ có
chuyển biến về nhận thức.
2/ Các đảng phái và các tổ chức chính trị chuyên
nghiệp, nếu có thể hình thành được từ cơ sở xã hội dân sự và phong trào dân chủ
hiện nay.
3/Áp lực và phản ứng đủ mạnh của người dân.
4/Các cá nhân mà vị trí công việc hoặc uy tín cho
phép có ảnh hưởng tới số đông dân chúng.
5/ Các dịch giả, các nhà phân tích và truyền thông cả
phi chính thống lẫn chính thống.
Ngoài ra chắc chắc còn những yếu tố khác nữa, mà những
người khác sẽ thảo luận hoặc bản thân tôi cũng có thể khai thác vào một dịp
khác.
Để tiện theo dõi, tôi sẽ trình bày mỗi vấn đề trong
một bài viết. Bài này đề cập đến việc lãnh đạo cao cấp của đảng cộng sản, trong
trường hợp họ muốn trở thành yếu tố của quá trình dân chủ hoá, thì đó là yếu tố
thúc đẩy một cách nhanh nhất sự thay đổi và phát triển của đất nước.
Thực tế đã cho chúng ta thấy rằng nhiều lãnh đạo của
các nước độc tài trên thế giới đã quyết định, trong một thời điểm nhất định, hoặc
là tiến hành các cải cách căn bản hệ thống chính trị để dẫn đến dân chủ hoá đất
nước, như trường hợp của Gorbatchev ở Nga, hoặc là cho phép chuyển đổi từ cơ chế
chính trị độc tài sang cơ chế chính trị dân chủ, như trường hợp Thein Sein ở Miến
Điện hay tướng Jaruzelski ở Ba Lan.
Điều này có thể xảy ra ở Việt Nam không ? Có lẽ
sẽ dễ hơn nếu tìm cách trả lời câu hỏi này : ở
Việt Nam có những lãnh đạo cộng sản muốn dân chủ hoá cơ chế chính trị
không ?
Trước khi tiếp tục, tôi xin trích dẫn một vài ý kiến
sau đây :
« Chế độ dân chủ thiết lập trên cơ sở một bản
Hiến pháp được xây dựng từ ý chí tự do của nhân dân lựa chọn hệ thống chính trị,
kinh tế, xã hội, văn hóa . Hiến pháp quy định thể thức bảo đảm tổng tuyển cử tự
do, không phân biệt khuynh hướng chính trị, quy định cách thức hoạt động của
nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, bảo đảm các quyền tự do của con
người và sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật.. »
« Chúng ta đã chọn mô hình giáo điều,
lai ghép chủ nghĩa xã hội Stalin với chủ nghĩa xã hội Mao Trạch Đông. Liên Xô
và các nước Đông Âu đang lâm vào khủng hoảng bởi mô hình Stalin, vi phạm dân chủ,
duy ý chí, quan liêu, đặc quyền, đặc lợi. Thế giới xã hội chủ nghĩa phải cải tổ,
đổi mới, giải quyết những mâu thuẫn, phá vỡ cái cũ, đạt tới các tiêu chí của thời
đại là: dân chủ, khoa học, nhân đạo, hiện đại. Xu thế chủ yếu là chuyển sang sở
hữu tư nhân, kinh tế hàng hóa, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự. »
« Đảng không bao biện lấn sân làm thay nhà
nước, không duy trì chế độ “đảng trị”, “toàn trị”. Nhà nước là công cụ của dân,
chứ không phải là công cụ của Đảng, không phải cấp trên của dân. Nhà nước quản
lý theo luật và bằng chính sách chứ không làm thay doanh nghiệp. Kế hoạch nhà
nước nằm trong chứ không nằm ngoài và đứng trên thị trường. Ngược lại, nếu duy
trì tình trạng như hiện nay thì không phải làm cho Đảng, cho Nhà nước vững mạnh
mà là tạo môi trường xã hội dung dưỡng độc đoán, lạm quyền, tham nhũng làm
thoái hóa Đảng và mục ruỗng Nhà nước. »
Những phát biểu này nghe cứ như là phát biểu của những
người đang đấu tranh trong phong trào dân chủ hiện nay. Vậy ai là tác giả của
các ý kiến trên đây?
Câu trả lời có thể làm cho nhiều người ngạc nhiên,
nhất là những người không tin (hoặc không muốn tin) rằng trong hàng ngũ cao cấp
của đảng cộng sản Việt Nam cũng có thể có những người mang tư tưởng cải cách
theo hướng dân chủ hoá.
Câu trả lời là : tác giả của những ý kiến mà
tôi dẫn trên đây là một người từng giữ chức Bí thư Trung ương đảng cộng sản Việt
Nam, và ông đã nói ra những điều đó khi ông còn là Bí thư Trung ương đảng, chứ
không phải là sau khi đã thôi chức hay về hưu.
Người đó là ông Trần
Xuân Bách. Xin xem bài của Tống Văn Công trên trang Viet-studies :http://www.viet-studies.info/kinhte/TongVanCong_TranXuanBach.htm
Các phát biểu đó, vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước,
đã khiến ông Bách phải mất hết các chức vụ và bị ngược đãi.
Dĩ nhiên lịch sử không có chữ « nếu ».
Nhưng chúng ta cũng cứ thử trí tưởng tượng của mình xem sao : Nếu vào những
năm 89-90 của thế kỷ trước, ông Trần Xuân Bách giữ chức Tổng bí thư, chứ không
phải ông Nguyễn Văn Linh, thì Việt Nam rất có thể đã có một kịch bản giống Liên
Xô, bởi ông Trần Xuân Bách ủng hộ tư tưởng và hành động cải tổ của Gorbatchev.
Giả sử hồi đó ông Trần Xuân Bách có đủ các điều
kiện cần thiết, và ông thành công trong việc chuyển đổi Việt Nam từ độc tài cộng
sản sang một thể chế dân chủ, như ông miêu tả trong đối thoại với ông Tống Văn
Công, thì ông Bách có xứng đáng được bầu làm Tổng thống của cái nước Việt Nam
dân chủ ấy không ? Câu trả lời của tôi không thay đổi : nếu ông Trần
Xuân Bách hồi đó có đủ quyền lực để làm được việc thay đổi thể chế thì ông ấy xứng
đáng được giữ chức Tổng thống của thể chế dân chủ do ông ấy góp phần quan trọng
để lập ra.
Thực ra trong hàng ngũ lãnh
đạo cộng sản không chỉ có một mình Trần Xuân Bách là có tư tưởng cải cách,
còn có tướng quân đội Trần Độ, đại tá công an Lê Hồng Hà, và thế hệ sau, gần
đây thôi, còn có những người từ bỏ chức vụ, như lãnh sự Đặng Xương Hùng.
Liệu lúc này ở Việt Nam có thể xuất hiện
một lãnh đạo như Trần Xuân Bách, và dám đi xa hơn Trần Xuân Bách ?
Vấn đề là ở chỗ, trong bộ máy lãnh đạo cao cấp Việt
Nam ở thời điểm này không có ai bộc lộ ra ngoài (bằng diễn ngôn và hành động)
các dấu hiệu cho thấy họ có tư tưởng cải cách chính trị. Vì thế mà người Việt
Nam không tin rằng hiện nay giải pháp dân chủ có thể đến từ tầng lớp lãnh đạo.
Tuy nhiên, người Miến Điện vào thời điểm 1988 (lúc
Aung San Suu Kyi bắt đầu từ bỏ vai trò người phụ nữ gia đình để đảm nhận vai
trò lãnh đạo chính trị) chắc cũng không tin rằng lãnh đạo độc tài quân sự sẽ chịu
tiến hành dân chủ hoá thể chế chính trị. Phải hơn hai mươi năm sau mới có quyết
định của tướng Thein Sein, người đứng đầu chính phủ Miến Điện vào thời điểm ông
ủng hộ dân chủ hoá thể chế chính trị, năm 2011.
Vấn đề của Việt Nam là lúc này tình thế đã quá cấp
bách, nếu hai mươi năm nữa mới dân chủ hoá chính trị thì lúc đó có lẽ đã quá muộn.
Áp lực của Trung cộng, hiểm hoạ môi sinh, tham nhũng, băng hoại xã hội về đạo đức
và tinh thần, lưỡi hái tử thần của sự nhiễm độc, không chỉ là biển nhiễm độc mà
là hầu như tất cả các loại thực phẩm mà người dân tiêu thụ hàng ngày đều không
an toàn…, tình trạng đó đòi hỏi muốn giữ độc lập và tránh thảm hoạ diệt vong cần
có một chính phủ đủ mạnh và đủ năng lực giải quyết các vấn đề.
Tình trạng độc quyền chính trị đã làm cho
bộ máy quyền lực của Việt Nam trở nên bất lực, không thể giải quyết được các vấn
đề của quốc gia. Vụ Formosa, thực ra không mấy khó khăn để
giải quyết nhưng chính phủ cũng không giải quyết nổi. Chỉ riêng việc chính phủ
phải mất đến ba tháng trời mới công bố nguyên nhân của vụ ô nhiễm đã chứng tỏ sự
yếu kém của chính phủ đến mức nào. Và việc giải quyết với mức đền bù 500 triệu
đô la cho thấy chính phủ bất lực đến mức nào, như nhiều phân tích đã chỉ ra.
Guồng máy chính trị hiện nay không thể
che dấu sự yếu kém và bất lực trong việc điều hành quốc gia. Đồng thời lại phạm
sai lầm ở chỗ lấy việc đàn áp nhân dân để chứng tỏ quyền lực của mình.
Tại sao sai lầm ? Bởi vì người dân sẽ không mãi mãi chấp nhận bị đàn áp. Và người Việt, cũng như mọi dân tộc khác, có khát vọng
sống và khát vọng tự do. Một ngàn năm Bắc thuộc, một trăm năm thuộc địa, không
đè bẹp được ý chí sống và ý chí độc lập của người Việt. Vậy dựa vào đâu để những
người lãnh đạo cộng sản tin rằng có thể dùng các phương tiện đàn áp để buộc người
dân của mình phải chấp nhận chết vì bị đầu độc, vì sự vô trách nhiệm của chính
phủ, và chấp nhận mất tự do, mất độc lập mãi mãi ? Ngày hôm nay, những ngư
dân mất biển đang xuống đường, và ngày mai, những người khác sẽ xuống đường
cùng với họ.
Nếu trong hàng ngũ lãnh đạo còn có những
người đủ tỉnh táo và đủ tầm nhìn, họ sẽ thấy rằng trước tình hình cấp bách này,
khi họ đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, thay đổi thể chế chính trị để đảm
bảo cuộc sống cho nhân dân và để bảo tồn và phát triển đất nước, thì họ sẽ có một
vai trò quan trọng trong lịch sử dân tộc.
Không ai có thể duy trì quyền lực vĩnh viễn, và cũng
chẳng ai mang theo được tiền bạc xuống mồ. Vậy có nghĩa lý gì khi mang vận mệnh
quốc gia, sự tồn vong của dân tộc, sinh mạng của nhân dân, uy tín và danh dự của
chính mình, để đánh đổi lấy một vài năm nắm giữ quyền lực và một đống tiền bạc
mà đằng nào cũng phải từ bỏ khi giã biệt cõi đời này ?
Paris, 28/9/2016
Nguyễn
Thị Từ Huy
Bộ phận nào trong xã hội có thể đẩy nhanh quá trình
dân chủ hóa? (III)
Nguyễn Thị
Từ Huy
Ảnh minh họa.
Nguồn: internet
Phần này bàn đến
vai trò và ý nghĩa của các tổ chức và các đảng phái chính trị trong công cuộc
dân chủ hoá ở Việt Nam.
Trước khi bàn
sâu vào vấn đề, cần làm sáng tỏ một điều : việc thành lập các tổ chức và
các đảng phái chính trị là hoàn toàn hợp hiến ở Việt Nam.
Dưới đây là các
điều khoản trong Hiến pháp 2013, hiến pháp hiện hành, làm chỗ dựa pháp lý cho
nhận định trên :
Điều 2
1. Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức.
Điều 3
Nhà nước bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo
vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
Điều 25
Công dân có
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu
tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.
Như vậy, theo
quy định của Hiến pháp, nhân dân Việt Nam có quyền làm chủ, hơn thế, tất cả các
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi công dân đều có quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí, tự do lập hội, biểu tình. Các tổ chức và đảng phái chính trị
trên thực tế cũng chính là các hội đoàn có nội dung hoạt động là chính trị. Người
dân Việt Nam có quyền lập hội, lập các tổ chức với tất cả các hoạt động trong mọi
lĩnh vực của đời sống, kể cả lĩnh vực chính trị. Điều này thuộc về quyền con
người, quyền công dân.
Vì thế việc
thành lập các đảng phái và các hội đoàn là hoàn toàn hợp hiến ở Việt Nam.
Nếu các quy định
của hiến pháp không được hoặc chưa được luật hoá thì đó là lỗi của Quốc hội, là
do sự yếu kém và bất lực của Quốc hội. Quốc hội được bầu ra để luật hoá những
gì được quy định trong Hiến pháp, nếu Quốc hội không làm được điều đó thì phải
chịu trách nhiệm trước nhân dân. Còn nhân dân được phép làm những gì thuộc về
quyền hiến định của mình và những gì không bị cấm. Nếu một Quốc hội không thực
hiện được vai trò và nhiệm vụ của mình thì phải bị giải thể để nhân dân lập nên
một Quốc hội khác có đủ năng lực giải quyết công việc.
Trên thực tế, Đảng
cộng sản Việt Nam không có lý do ngăn cấm người dân thành lập các đảng phái
chính trị. Tôi chỉ nêu ra đây hai điểm (trong vô số điểm có thể dùng làm căn cứ
để chứng minh cho điều này).
Thứ nhất, nếu
ngăn cấm người dân thành lập đảng thì Đảng cộng sản cũng không có lý do để tồn
tại. Đảng cộng sản không thể trả lời được câu hỏi :
"tại sao có thể
thành lập Đảng cộng sản mà không thể thành lập các đảng khác ?",
hoặc "Lý do nào khiến cho chỉ có một mình Đảng cộng sản có thể tồn tại
mà các đảng khác thì không ?".
Câu hỏi này là một câu hỏi không thể
trả lời. Không thể tìm thấy lý do. Cả Tổng bí thư, cả Ban lý luận trung ương đảng,
ngay cả Hồ Chí Minh, người thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, cũng không thể có
câu trả lời.
Thứ hai, không
thể có câu trả lời, bởi vì trong thực tế, chính bản thân Đảng cộng sản Việt
Nam, vào thời điểm hình thành, dưới tên gọi là Đảng cộng sản Đông dương, là một
tổ chức chính trị bất hợp pháp. Điều khiến cho ĐCS có thể tự hào là họ đã đấu
tranh từ chỗ bất hợp pháp thành ra một đảng hợp pháp. Và một trong các mục tiêu
mà ĐCS đưa ra để thu hút quần chúng đứng vào hàng ngũ của đảng là ĐCS đấu tranh
cho một nền tự do trong đó người Việt Nam có quyền lập hội, lập đảng, một cách
hợp pháp.
Nếu ngày nay ĐCS
ngăn cấm người dân lập hội, lập đảng, thì có nghĩa ĐCS đã phản bội lại mục tiêu
của chính mình, phản bội lại nhân dân, và phản bội lại chính bản thân ĐCS. Để
có thể có chính danh lãnh đạo, ĐCS không thể phô bày sự phản bội đó trên giấy
trắng mực đen. Vì thế mà Hiến pháp Việt Nam dù có điều khoản quy định quyền
lãnh đạo của đảng cộng sản, nhưng KHÔNG THỂ đưa vào điều khoản cấm lập đảng, cấm
tự do ngôn luận và cấm tự do lập hội. Trái lại, phải thừa nhận các quyền đó.
Trên thực tế,
theo thống kê của Wikipédia tiếng Việt, kể từ năm 1912 đến hiện nay, Việt
Nam có 44 đảng. Điều đáng nói và có thể nhiều người chưa biết, là nhiều đảng trong
số đó đã tồn tại song song với đảng cộng sản. Đáng nói hơn nữa là đảng viên của
một số đảng khác đã từng tham gia vào bộ máy lãnh đạo của nhà nước Việt Nam, giữ
những chức vụ quan trọng. Nghĩa là trong lịch sử của mình, bản thân ĐCS đã chia
quyền lãnh đạo với các đảng khác, chứ không phải độc quyền lãnh đạo như hiện
nay.
Vì không thể dài
dòng, nên tôi chỉ lấy một ví dụ về Đảng dân chủ Việt Nam, thành lập năm
1944 và giải thể năm 1988, với chủ tịch là Dương Đức Hiền và Tổng thư ký là
Nghiêm Xuân Yêm.
Dương Đức Hiền từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Thanh niên
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Ủy ban Thường trực Quốc hội khóa I và khóa II.
Nghiêm Xuân Yêm từng làm Bộ trưởng của nhiều Bộ : Nông nghiệp, Canh nông,
Nông Lâm, Nông nghiệp, Bộ Nông trường; cũng từng giữ chức Phó Chủ tịch Quốc hội
Việt Nam. Trần Đăng Khoa, Phó Tổng thư ký Đảng dân chủ, từng là Bộ trưởng của
các Bộ : Giao thông Công chính, Bộ Thủy lợi, của chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Trần Kim Lý, Cố Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư BCH Đảng bộ Đảng Dân
chủ Việt Nam Thành phố Hà Nội, từng là Đại biểu Quốc hội các khoá III, IV, V,
VI và Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội khóa VII. Và còn nhiều nhân vật
khác nữa, không thể kể ra hết.
Rất gần đây, một số đảng khác cũng ra đời ở Việt
Nam :
Đảng dân chủ Việt Nam (Đảng dân chủ 21) do ông Hoàng Minh Chính
thành lập năm 2006,
Đảng dân chủ nhân dân do ông Đỗ Thành Công thành lập năm
2004,
Đảng thăng tiến Việt Nam (có tiền thân là khối 8406) được thành lập năm
2006.
Như vậy, xét về mặt điều kiện pháp lý và xét về mặt
thực tế, việc thành lập các đảng phái chính trị và các tổ chức chính trị là
hoàn toàn có thể và hợp hiến. Vì thế, nếu ở Việt Nam không hình thành được các
tổ chức chính trị hay các đảng chính trị lớn mạnh thì có thể nói, đó hạn chế của
chính người dân Việt Nam. Hạn chế ở chỗ đã không thực hiện các quyền hiến định
của mình.
Đã đến lúc người Việt phải nghĩ đến việc khắc phục hạn chế này.
Paris, 30/9/2016
Bộ phận nào trong xã hội có thể đẩy nhanh quá trình
dân chủ hóa? (phần IV)
Nguyễn Thị
Từ Huy
Đầu năm 2016,
ngay trước đại hội XII của đảng cộng sản Việt Nam, tôi có viết một loạt bài đặt
vấn đề về khả năng cải cách hệ thống chính trị ở Việt Nam. Lúc đó, phải thừa nhận
rằng tôi có đôi chút hy vọng khi diễn giải kết quả của đại hội như là sự thắng
thế của những lãnh đạo muốn giữ một sự độc lập nhất định với Trung cộng và muốn
chống tham nhũng, mà dẫn đầu là ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư tái cử. Nhưng
gần một năm đã trôi qua, trong khoảng thời gian đó bao nhiêu thảm hoạ môi trường,
thảm hoạ xã hội, đã xảy ra, mà không một dấu hiệu nào cho thấy hệ thống lãnh đạo
có mong muốn và có đủ khả năng cải cách. Trái lại, người ta chỉ thấy sự gia
tăng bắt bớ và đàn áp nhân quyền, đàn áp báo chí, và gần đây nhất, mới ngày hôm
qua, chính quyền còn đàn áp cả những người dân khốn khổ, những người dân đã bị
dồn vào chỗ không còn phương tiện sống.
Đến
lúc này đã có thể nói rằng, vì không có năng lực cải cách, hệ thống chính trị
Việt Nam (vốn đã là
nguyên nhân của mọi sự suy thoái trong xã hội và là nguyên nhân của sự kìm hãm
phát triển, kìm hãm mọi phương diện) đã bước vào giai
đoạn trầm kha với với vô số khối u đã đến hồi di căn vô phương cứu chữa. Nhìn
đâu trong xã hội cũng thấy vấn đề : giao
thông ư ? y tế ư ? môi trường ư ? kinh tế ư ? khoa học
ư ? sản xuất ư ? giáo dục ư ? Có
lĩnh vực nào là không có lời oán thán vang lên dậy đất ? Biển chết,
đồng bằng khô cạn, trong khi thành phố lại ngập lụt, bão lũ tàn phá, nhà máy
thuỷ điện xả lũ khiến dân phải chết, cá không chỉ chết vì nhà máy thép xả chất
độc xuống biển miền trung, hàng tấn cá còn chết trắng cả thủ đô, và nhiều nơi
khác trên đất nước. Cá chết vì độc tố, và người chết vì ung thư do hàng ngày
đưa chất độc vào người thông qua thực phẩm.
Một hệ
thống chính trị bất lực và thất bại. Uy tín của đảng cầm quyền đã sa sút tận
đáy. Chỉ cần phân tích một ví dụ,
trong vô vàn ví dụ, để làm dẫn chứng cho sự bất lực của hệ thống: ví dụ về
việc chống tham nhũng.
Thất bại trong
việc chống tham nhũng không chỉ biểu hiện ở chỗ một tội phạm tham nhũng như Trịnh
Xuân Thanh có thể trốn thoát một cách dễ dàng. Mà giả sử có bắt được Trịnh Xuân
Thanh thì việc chống tham nhũng cũng vẫn sẽ thất bại như thường. Bởi vụ xử Trịnh
Xuân Thanh, nếu có thể xảy ra, chỉ thành công khi chính quyền dám đưa ra toà tất
cả những yếu tố liên quan, từ người lái xe cho ông Thanh, chủ sở hữu của cái xe
hơi đắt tiền do ông Thanh sử dụng, đến người bố có cái công ty đã đứng tên căn
biệt thự xa hoa do ông Thanh sử dụng, đến cấp trên của ông Thanh là ông Đinh La
Thăng, đối tượng trong nhiều bài viết trên blog của nhà báo Huy Đức trong đó
ông Huy Đức đã vạch ra cụ thể những gì ông Thăng đã làm. Và ông Đinh La Thăng
là uỷ viên Bộ chính trị, cơ quan quyền lực cao nhất nước, nơi quyết định mọi vấn
đề của quốc gia.
Loạt bài của nhà báo Huy Đức đã chạm trực tiếp đến uy tín của
Bộ chính trị. Để xử vụ Trịnh Xuân Thanh còn phải đụng đến tất cả các nhân vật
quan trọng tại những nơi ông Thanh từng làm việc, không chỉ Dầu khí, Bộ Công
thương, Tỉnh uỷ tỉnh Hậu giang, mà còn phải đụng đến cả các nhân vật đã ký duyệt
thuyên chuyển công tác cho ông Thanh, sau tất cả những sai phạm mà ông đã thực
hiện, đó là Ban tổ chức Trung ương. Nếu luật pháp không xử được tất cả các đối
tượng liên quan, thì Trịnh Xuân Thanh có quyền nói rằng ông ta bị oan, bởi ông
ta không tham nhũng một mình. Còn người dân thì không nhìn vụ việc như là một vụ
chống tham nhũng, mà như là một vụ thanh trừng phe cánh trong đảng. Vì thế, nếu
không xử được đến tận mắt xích cuối cùng có liên quan đến vụ việc thì không thể
coi đó là một thành công, dù có bắt và xử Trịnh Xuân Thanh. Vậy, ông Đinh La
Thăng có bị đưa ra xử không ? Ban tổ chức Trung ương có bị đưa ra xử
không ? Nếu ông Thăng bị xử và khai ra những người khác, cao hơn ông ta,
thì những người đó có bị xử không ?
Tham
nhũng là con đẻ của hệ thống chính trị độc tài độc đảng, trong đó luật pháp chỉ
là công cụ của đảng cầm quyền. Và
một khi pháp luật chỉ là công cụ cho một đảng phái thì nó đánh mất vai trò,
đánh mất giá trị, và đánh mất hiệu lực của nó. Tham
nhũng chỉ có thể bị hạn chế hoặc được giải quyết khi có một nền luật pháp công
minh. Một nền luật pháp công minh lại không thể tồn tại trong chế độ độc tài độc
đảng. Toàn bộ sự luẩn quẩn này cho thấy rằng hệ thống chính trị độc đảng
hiện tại của Việt Nam là nguyên nhân đẻ ra tham nhũng và tự nó, bản thân hệ thống,
không thể giải quyết vấn đề tham nhũng. Bằng chứng là đã xử Vinashin,
Vinalines, nhưng, mượn cách nói của Huy Đức, các nhân vật như Trịnh Xuân Thanh
và đồng chí của ông ta lại cho ra đời những Vinashin, Vinalines khác, trong khi
mà các nhân vật hưởng lợi lớn nhất từ các vụ tham nhũng thì lại không thể đụng
tới. Càng chống tham nhũng, càng thất bại, tham nhũng càng phát triển và mang
những bộ mặt mới, những hình thái mới.
So sánh một chút
để thấy rằng, nếu Thủ tướng Manuel Valls của Pháp mà ký quyết định thần tốc một
cách mờ ám cho phép một công ty hủy hoại môi trường cỡ Formosa hoạt động thì
ông ta đã phải bị toà án sờ gáy từ lâu. Nicolas Sarkozy, sau khi rời khỏi ghế tổng
thống liền bị gọi ra toà nhiều bận, dù rằng cho đến lúc này toà vẫn chưa có bằng
chứng cho các nghi ngờ về sai phạm tiền bạc của ông ta, và vì thế ông ta vẫn ra
tái tranh cử tổng thống. Nhưng giả sử các bằng chứng được thu thập thì ông ta
nhất định vẫn sẽ phải hầu toà.
Đó là sự khác biệt
căn bản giữa một nhà nước pháp quyền như Cộng hoà Pháp và một nhà nước đảng quyền
như Việt Nam. Toà án Việt Nam bất lực, không thể sờ gáy các lãnh đạo cao cấp,
vì họ được đảng độc quyền bảo trợ.
Tham
nhũng sẽ tiếp tục là căn bệnh ung thư huỷ hoại dân tộc chừng nào quyền lực tuyệt
đối còn nằm trong tay một đảng chính trị duy nhất, chừng nào còn chưa có tam
quyền phân lập. Chừng nào mà cả
ba nhánh quyền lực còn bị chi phối bởi sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng thì chừng
đó mọi thứ vẫn còn tiếp tục suy thoái, tha hoá, và như những gì mà cựu Phó ban
Tuyên giáo Trung ương Vũ Ngọc Hoàng đã nhìn thấy : nếu quyền lực tuyệt đối
của đảng không bị kiểm soát thì đảng tất yếu sẽ suy thoái hơn nữa, và sự suy
thoái của đảng sẽ dẫn tới sự sụp đổ chế độ.
Nói những điều
trên để dẫn tới nhận định rằng thất bại trong việc quản lý, điều hành và giải
quyết các vấn đề đất nước là điều không thể tránh khỏi khi mà Việt Nam vẫn duy
trì mô hình chính trị độc tài độc đảng hiện tại. Đây là một tình thế đau xót mà
chúng ta phải hình dung, bởi vì đó có thể là thực tế chờ đợi chúng ta : trước
khi chế độ sụp đổ thì môi trường có thể đã bị huỷ hoại hết, dân có thể đã mất hết
đường sống ; nghĩa là dân tộc có thể phải chịu nhiều hậu quả quá nặng nề
trước khi chế độ sụp đổ.
Người Việt Nam, muốn tự cứu mình, không thể
ngồi chờ chế độ sụp đổ.
Thất bại không thể tránh khỏi của chính quyền đương
nhiệm, của đảng cầm quyền đương nhiệm, đòi hỏi ở Việt
Nam phải hình thành những đảng phái chính trị khác, những đảng chính trị
có khả năng giải quyết các vấn đề của quốc gia, có khả năng cứu nước, cứu môi
trường, cứu dân tộc khỏi thảm hoạ diệt vong. Đòi hỏi này giờ đây đã là một đòi
hỏi cấp bách, trước tình thế tuyệt vọng mà cả nước đang lâm vào hiện nay.