01.10.2016

Bộ phận nào trong xã hội có thể đẩy nhanh quá trình dân chủ hóa ?(I) (II) (III) (IV)

"Việt Nam muốn độc lập thì phải dân chủ hóa.

...người dân sẽ không mãi mãi chấp nhận bị đàn áp. "

Bộ phận nào trong xã hội có thể đẩy nhanh quá trình dân chủ hóa ?(I)

Nguyenthituhuy 
    Nguồn ảnh: Internet

Cách đây không lâu, Lê Anh Hùng có đặt ra một vấn đề ở tầm chiến lược : « Cách mạng dân chủ ở Việt Nam: từ dưới lên hay từ trên xuống? », đồng thời đưa ra một số phương án về khả năng chuyển đổi dân chủ ở Việt Nam.

Đây là một chủ đề lớn, và cần thảo luận rốt ráo, nhất là trong tình trạng khẩn cấp hiện nay, khi chủ quyền và môi trường đều bị đe dọa. Sẽ có những người cho rằng, đối với Việt Nam vấn đề cấp bách là thoát Trung, và tạm thời cần dẹp qua một bên vấn đề nhân quyền và dân chủ. Tuy nhiên cũng sẽ có người nghĩ rằng, Việt Nam muốn độc lập thì phải dân chủ hóa. Tôi cũng nghĩ theo hướng này, Việt Nam không thể có độc lập, không thể cứu môi trường nếu không dân chủ hóa. Nhận định này có lẽ được củng cố khi ta quan sát những gì đang diễn ra, những cách thức xử lý của chính phủ về các vụ đồng bằng sông Cửu Long, Vũng Áng, Formosa…


Tiếp tục suy nghĩ về các khả năng và nhất là về điều kiện cho sự dân chủ hóa ở Việt Nam, trong bài này tôi sẽ đề cập đến một điểm, một trong cả chuỗi vấn đề cần quan tâm phân tích : bộ phận nào trong xã hội có thể đẩy nhanh quá trình dân chủ hóa trong tình thế cấp bách này?

Câu trả lời mà có lẽ nhiều người nghĩ đến đầu tiên là : bộ phận cấu thành phong trào dân chủ. Dĩ nhiên, để định nghĩa phong trào dân chủ không đơn giản. Dù vậy, cũng có thể xem là từ « phong trào dân chủ » được hiểu là phong trào của những người trực diện đấu tranh, những người bất đồng chính kiến, những người từng bị giam giữ, những người thường xuyên trực tiếp xuống đường… Không thể phủ nhận đóng góp to lớn của những người này trong quá trình thức tỉnh lương tri và làm thay đổi nhận thức. Thực sự là những hy sinh của họ, những nỗ lực của họ đã có một tác động quan trọng đối với sự chuyển động xã hội. Sự can đảm của họ đã kêu gọi sự can đảm của người khác, khiến cho dần dần càng có nhiều người bước qua lằn ranh của sự sợ hãi.

Câu trả lời thứ hai mà có thể nhiều người cũng đồng tình : xã hội dân sự. Cụ thể là các tổ chức xã hội dân sự. Sự hình thành của các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam đã đánh dấu một bước chuyển biến mới của phong trào dân chủ. Giờ đây, các cá nhân đã tập hợp lại với nhau trong một số tổ chức. Và dĩ nhiên, sức mạnh của một tổ chức bao giờ cũng lớn hơn sức mạnh của một cá nhân. Đồng thời sự tồn tại của các tổ chức xã hội dân sự gợi lên niềm hy vọng rằng một ngày nào đó chính phủ độc tài sẽ cho phép hợp pháp hóa các tổ chức hội đoàn độc lập. Dĩ nhiên, đấy là một trong những điều kiện nền tảng để xây dựng một xã hội dân chủ.

Tuy nhiên, câu trả lời mà tôi tìm thấy hơi khác. Dù phải chịu đựng nhiều hy sinh, dù có đóng góp quan trọng trong tiến trình dân chủ hóa, nhưng vai trò thúc đẩy NHANH quá trình dân chủ không thuộc về các hội đoàn xã hội dân sự, các cá nhân bất đồng chính kiến hay các nhà tranh đấu (như từ vẫn thường được dùng ngày nay). Tại sao ? Tại vì trong quan niệm của xã hội Việt Nam hiện nay, họ bị xem là quá cực đoan (một người chỉ viết lách ôn hòa như tôi mà cũng bị xếp vào diện cực đoan thì những người đã từng bị kết án tù sẽ còn bị xem là cực đoan đến mức nào). Điều này, cùng với sự đàn áp của chính quyền khiến họ bị đặt vào tình thế cô lập.

Mặc dù họ liên kết lại với nhau trong một số hội đoàn, nhưng vẫn chỉ là họ với nhau. Nghĩa là họ không có cơ hội để tiếp xúc và để tác động trực tiếp với cái khối đông đảo quần chúng trong xã hội. Tác động của họ chủ yếu thông qua việc viết lách, thông qua các công bố trên mạng. Các cuộc tiếp xúc chỉ diễn ra giữa họ với nhau, trong những nhóm rất nhỏ. Điều này thật khác với Aung San Suu Kyi, khi mà bà có thể làm những cuộc diễn thuyết về dân chủ trước hàng ngàn người. Cũng có một bộ phận trong giới đấu tranh có thể có tác động trên diện rộng, đó là bộ phận công giáo. Tuy nhiên, các bài giảng ở nhà thờ không thể đi ra ngoài phạm vi tôn giáo, nghĩa là các linh mục cũng không thể giảng các bài giảng về dân chủ, mà chỉ có thể lồng một số nội dung nhất định nào đó vào các bài giảng thánh lễ.

Ngoài ra, một điều khác mà ta có thể nhận thấy là cuộc đấu tranh ở Việt Nam đang chủ yếu đi theo hướng phản ứng lại các chính sách bất cập hay ngăn chặn các việc làm sai trái của bộ phận công quyền. Phán kháng, tố cáo, kiến nghị, một số cuộc biểu tình… là những dạng thức hoạt động chính. Dĩ nhiên, những việc này rất cần thiết và quan trọng, và luôn cần thiết và quan trọng.

Nhưng việc truyền bá kiến thức về dân chủ hầu như rất ít được thực hiện. Hiện nay cũng chưa có một tổ chức nào chuyên tập trung vào việc này. Họ không lựa chọn việc truyền bá kiến thức về dân chủ, quảng bá ý nghĩa của dân chủ, giới thiệu tầm quan trọng của dân chủ, như một nội dung hoạt động chính. Dĩ nhiên, có một số chương trình như giới thiệu về quyền con người. Nhưng thực sự rất ít những chương trình như thế. Và nhất là bản thân các hội đoàn dường như cũng không xem việc phải xây dựng một lề lối làm việc dân chủ, một cơ cấu tổ chức dân chủ, là quan trọng.

Nghĩa là, nếu lấy lại một ý mà tôi từng nói trong một bài viết trước đây thì ta có thể nói, cuộc đấu tranh hiện nay đang thiên về hướng chống lại thể chế độc tài, chứ chưa xem trọng việc phải xây dựng các kiến thức, các giá trị và các chuẩn mực về dân chủ, chưa làm rõ được ý nghĩa và vai trò của dân chủ trong đời sống xã hội. Và như thế thì khối đông quần chúng trong xã hội sẽ không tìm thấy lý do để ủng hộ các nhà tranh đấu, họ sẽ không biết tại sao họ cần ủng hộ các nhà tranh đấu, trong khi mà dù xã hội nhiễu nhương dường như họ vẫn đang có cuộc sống ổn định. Và thực ra, nếu người dân hỏi rằng : « Dân chủ ích lợi gì trong việc bảo vệ Trường sa Hoàng sa ? », « dân chủ ích lợi gì trong việc giải độc biển Đông ? », « dân chủ có cứu được phụ nữ Việt Nam phải bán mình đi làm thê thiếp cho đàn ông nước ngoài không ? »… thì những người tranh đấu sẽ trả lời như thế nào ?

Nói điều này thì một người như tôi phải tự nhận trách nhiệm về phần mình. Tôi cũng là người tham gia phong trào, và tôi cũng chưa làm được gì để cải thiện tình hình này, mặc dù có lẽ tôi có điều kiện để làm việc này hơn một số người khác.

Paris, 7/7/2016
Nguyễn Thị Từ Huy


Bộ phận nào trong xã hội có thể đẩy nhanh quá trình dân chủ hóa ?(II)

nguyenthituhuy 

     Nguồn ảnh: Internet

Khi tiếp tục suy nghĩ  về câu hỏi : « Bộ phận nào trong xã hội có thể đẩy nhanh quá trình dân chủ hoá ? », tạm thời tôi đứng trước mấy câu trả lời sau đây :

1/ Nội bộ lãnh đạo cao cấp của Việt Nam, nếu họ có chuyển biến về nhận thức.

2/ Các đảng phái và các tổ chức chính trị chuyên nghiệp, nếu có thể hình thành được từ cơ sở xã hội dân sự và phong trào dân chủ hiện nay.

3/Áp lực và phản ứng đủ mạnh của người dân.

4/Các cá nhân mà vị trí công việc hoặc uy tín cho phép có ảnh hưởng tới số đông dân chúng.

5/ Các dịch giả, các nhà phân tích và truyền thông cả phi chính thống lẫn chính thống.

Ngoài ra chắc chắc còn những yếu tố khác nữa, mà những người khác sẽ thảo luận hoặc bản thân tôi cũng có thể khai thác vào một dịp khác.

Để tiện theo dõi, tôi sẽ trình bày mỗi vấn đề trong một bài viết. Bài này đề cập đến việc lãnh đạo cao cấp của đảng cộng sản, trong trường hợp họ muốn trở thành yếu tố của quá trình dân chủ hoá, thì đó là yếu tố thúc đẩy một cách nhanh nhất  sự thay đổi và phát triển của đất nước.

Thực tế đã cho chúng ta thấy rằng nhiều lãnh đạo của các nước độc tài trên thế giới đã quyết định, trong một thời điểm nhất định, hoặc là tiến hành các cải cách căn bản hệ thống chính trị để dẫn đến dân chủ hoá đất nước, như trường hợp của Gorbatchev ở Nga, hoặc là cho phép chuyển đổi từ cơ chế chính trị độc tài sang cơ chế chính trị dân chủ, như trường hợp Thein Sein ở Miến Điện hay tướng Jaruzelski ở Ba Lan.

Điều này có thể xảy ra ở Việt Nam không ? Có lẽ sẽ dễ hơn nếu tìm cách trả lời câu hỏi này : ở  Việt Nam có những lãnh đạo cộng sản muốn dân chủ hoá cơ chế chính trị không ?

Trước khi tiếp tục, tôi xin trích dẫn một vài ý kiến sau đây :

« Chế độ dân chủ thiết lập trên cơ sở một bản Hiến pháp được xây dựng từ ý chí tự do của nhân dân lựa chọn hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa . Hiến pháp quy định thể thức bảo đảm tổng tuyển cử tự do, không phân biệt khuynh hướng chính trị, quy định cách thức hoạt động của nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, bảo đảm các quyền tự do của con người và sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật.. »

 « Chúng ta đã chọn mô hình giáo điều, lai ghép chủ nghĩa xã hội Stalin với chủ nghĩa xã hội Mao Trạch Đông. Liên Xô và các nước Đông Âu đang lâm vào khủng hoảng bởi mô hình Stalin, vi phạm dân chủ, duy ý chí, quan liêu, đặc quyền, đặc lợi. Thế giới xã hội chủ nghĩa phải cải tổ, đổi mới, giải quyết những mâu thuẫn, phá vỡ cái cũ, đạt tới các tiêu chí của thời đại là: dân chủ, khoa học, nhân đạo, hiện đại. Xu thế chủ yếu là chuyển sang sở hữu tư nhân, kinh tế hàng hóa, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự. »
« Đảng không bao biện lấn sân làm thay nhà nước, không duy trì chế độ “đảng trị”, “toàn trị”. Nhà nước là công cụ của dân, chứ không phải là công cụ của Đảng, không phải cấp trên của dân. Nhà nước quản lý theo luật và bằng chính sách chứ không làm thay doanh nghiệp. Kế hoạch nhà nước nằm trong chứ không nằm ngoài và đứng trên thị trường. Ngược lại, nếu duy trì tình trạng như hiện nay thì không phải làm cho Đảng, cho Nhà nước vững mạnh mà là tạo môi trường xã hội dung dưỡng độc đoán, lạm quyền, tham nhũng làm thoái hóa Đảng và mục ruỗng Nhà nước. »

Những phát biểu này nghe cứ như là phát biểu của những người đang đấu tranh trong phong trào dân chủ hiện nay. Vậy ai là tác giả của các ý kiến trên đây?

Câu trả lời có thể làm cho nhiều người ngạc nhiên, nhất là những người không tin (hoặc không muốn tin) rằng trong hàng ngũ cao cấp của đảng cộng sản Việt Nam cũng có thể có những người mang tư tưởng cải cách theo hướng dân chủ hoá.

Câu trả lời là : tác giả của những ý kiến mà tôi dẫn trên đây là một người từng giữ chức Bí thư Trung ương đảng cộng sản Việt Nam, và ông đã nói ra những điều đó khi ông còn là Bí thư Trung ương đảng, chứ không phải là sau khi đã thôi chức hay về hưu.

Người đó là ông Trần Xuân Bách. Xin xem bài của Tống Văn Công trên trang Viet-studies :http://www.viet-studies.info/kinhte/TongVanCong_TranXuanBach.htm

Các phát biểu đó, vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước, đã khiến ông Bách phải mất hết các chức vụ và bị ngược đãi.

Dĩ nhiên lịch sử không có chữ « nếu ». Nhưng chúng ta cũng cứ thử trí tưởng tượng của mình xem sao : Nếu vào những năm 89-90 của thế kỷ trước, ông Trần Xuân Bách giữ chức Tổng bí thư, chứ không phải ông Nguyễn Văn Linh, thì Việt Nam rất có thể đã có một kịch bản giống Liên Xô, bởi ông Trần Xuân Bách ủng hộ tư tưởng và hành động cải tổ của Gorbatchev.

 Giả sử hồi đó ông Trần Xuân Bách có đủ các điều kiện cần thiết, và ông thành công trong việc chuyển đổi Việt Nam từ độc tài cộng sản sang một thể chế dân chủ, như ông miêu tả trong đối thoại với ông Tống Văn Công, thì ông Bách có xứng đáng được bầu làm Tổng thống của cái nước Việt Nam dân chủ ấy không ? Câu trả lời của tôi không thay đổi : nếu ông Trần Xuân Bách hồi đó có đủ quyền lực để làm được việc thay đổi thể chế thì ông ấy xứng đáng được giữ chức Tổng thống của thể chế dân chủ do ông ấy góp phần quan trọng để lập ra.

Thực ra trong hàng ngũ lãnh đạo cộng sản không chỉ có một mình Trần Xuân Bách là có tư tưởng cải cách, còn có tướng quân đội Trần Độ, đại tá công an Lê Hồng Hà, và thế hệ sau, gần đây thôi, còn có những người từ bỏ chức vụ, như lãnh sự Đặng Xương Hùng.

Liệu lúc này ở Việt Nam có thể xuất hiện một lãnh đạo như Trần Xuân Bách, và dám đi xa hơn Trần Xuân Bách ?

Vấn đề là ở chỗ, trong bộ máy lãnh đạo cao cấp Việt Nam ở thời điểm này không có ai bộc lộ ra ngoài (bằng diễn ngôn và hành động) các dấu hiệu cho thấy họ có tư tưởng cải cách chính trị. Vì thế mà người Việt Nam không tin rằng hiện nay giải pháp dân chủ có thể đến từ tầng lớp lãnh đạo.

Tuy nhiên, người Miến Điện vào thời điểm 1988 (lúc Aung San Suu Kyi bắt đầu từ bỏ vai trò người phụ nữ gia đình để đảm nhận vai trò lãnh đạo chính trị) chắc cũng không tin rằng lãnh đạo độc tài quân sự sẽ chịu tiến hành dân chủ hoá thể chế chính trị. Phải hơn hai mươi năm sau mới có quyết định của tướng Thein Sein, người đứng đầu chính phủ Miến Điện vào thời điểm ông ủng hộ dân chủ hoá thể chế chính trị, năm 2011.

Vấn đề của Việt Nam là lúc này tình thế đã quá cấp bách, nếu hai mươi năm nữa mới dân chủ hoá chính trị thì lúc đó có lẽ đã quá muộn.  Áp lực của Trung cộng, hiểm hoạ môi sinh, tham nhũng, băng hoại xã hội về đạo đức và tinh thần, lưỡi hái tử thần của sự nhiễm độc, không chỉ là biển nhiễm độc mà là hầu như tất cả các loại thực phẩm mà người dân tiêu thụ hàng ngày đều không an toàn…, tình trạng đó đòi hỏi muốn giữ độc lập và tránh thảm hoạ diệt vong cần có một chính phủ đủ mạnh và đủ năng lực giải quyết các vấn đề.

Tình trạng độc quyền chính trị đã làm cho bộ máy quyền lực của Việt Nam trở nên bất lực, không thể giải quyết được các vấn đề của quốc gia. Vụ Formosa, thực ra không mấy khó khăn để giải quyết nhưng chính phủ cũng không giải quyết nổi. Chỉ riêng việc chính phủ phải mất đến ba tháng trời mới công bố nguyên nhân của vụ ô nhiễm đã chứng tỏ sự yếu kém của chính phủ đến mức nào. Và việc giải quyết với mức đền bù 500 triệu đô la cho thấy chính phủ bất lực đến mức nào, như nhiều phân tích đã chỉ ra.

Guồng máy chính trị hiện nay không thể che dấu sự yếu kém và bất lực trong việc điều hành quốc gia. Đồng thời lại phạm sai lầm ở chỗ lấy việc đàn áp nhân dân để chứng tỏ quyền lực của mình. Tại sao sai lầm ? Bởi vì người dân sẽ không mãi mãi chấp nhận bị đàn áp. Và người Việt, cũng như mọi dân tộc khác, có khát vọng sống và khát vọng tự do. Một ngàn năm Bắc thuộc, một trăm năm thuộc địa, không đè bẹp được ý chí sống và ý chí độc lập của người Việt. Vậy dựa vào đâu để những người lãnh đạo cộng sản tin rằng có thể dùng các phương tiện đàn áp để buộc người dân của mình phải chấp nhận chết vì bị đầu độc, vì sự vô trách nhiệm của chính phủ, và chấp nhận mất tự do, mất độc lập mãi mãi ? Ngày hôm nay, những ngư dân mất biển đang xuống đường, và ngày mai, những người khác sẽ xuống đường cùng với họ.

Nếu trong hàng ngũ lãnh đạo còn có những người đủ tỉnh táo và đủ tầm nhìn, họ sẽ thấy rằng trước tình hình cấp bách này, khi họ đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, thay đổi thể chế chính trị để đảm bảo cuộc sống cho nhân dân và để bảo tồn và phát triển đất nước, thì họ sẽ có một vai trò quan trọng trong lịch sử dân tộc.

Không ai có thể duy trì quyền lực vĩnh viễn, và cũng chẳng ai mang theo được tiền bạc xuống mồ. Vậy có nghĩa lý gì khi mang vận mệnh quốc gia, sự tồn vong của dân tộc, sinh mạng của nhân dân, uy tín và danh dự của chính mình, để đánh đổi lấy một vài năm nắm giữ quyền lực và một đống tiền bạc mà đằng nào cũng phải từ bỏ khi giã biệt cõi đời này ?

Paris, 28/9/2016
Nguyễn Thị Từ Huy


Bộ phận nào trong xã hội có thể đẩy nhanh quá trình dân chủ hóa? (III)

Nguyễn Thị Từ Huy

                                 Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Phần này bàn đến vai trò và ý nghĩa của các tổ chức và các đảng phái chính trị trong công cuộc dân chủ hoá ở Việt Nam.

Trước khi bàn sâu vào vấn đề, cần làm sáng tỏ một điều : việc thành lập các tổ chức và các đảng phái chính trị là hoàn toàn hợp hiến ở Việt Nam.
Dưới đây là các điều khoản trong Hiến pháp 2013, hiến pháp hiện hành, làm chỗ dựa pháp lý cho nhận định trên :

Điều 2  
1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. 

Điều 3  
Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

Điều 25  
Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.

Như vậy, theo quy định của Hiến pháp, nhân dân Việt Nam có quyền làm chủ, hơn thế, tất cả các quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi công dân đều có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, biểu tình. Các tổ chức và đảng phái chính trị trên thực tế cũng chính là các hội đoàn có nội dung hoạt động là chính trị. Người dân Việt Nam có quyền lập hội, lập các tổ chức với tất cả các hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống, kể cả lĩnh vực chính trị. Điều này thuộc về quyền con người, quyền công dân.
Vì thế việc thành lập các đảng phái và các hội đoàn là hoàn toàn hợp hiến ở Việt Nam.

Nếu các quy định của hiến pháp không được hoặc chưa được luật hoá thì đó là lỗi của Quốc hội, là do sự yếu kém và bất lực của Quốc hội. Quốc hội được bầu ra để luật hoá những gì được quy định trong Hiến pháp, nếu Quốc hội không làm được điều đó thì phải chịu trách nhiệm trước nhân dân. Còn nhân dân được phép làm những gì thuộc về quyền hiến định của mình và những gì không bị cấm. Nếu một Quốc hội không thực hiện được vai trò và nhiệm vụ của mình thì phải bị giải thể để nhân dân lập nên một Quốc hội khác có đủ năng lực giải quyết công việc.

Trên thực tế, Đảng cộng sản Việt Nam không có lý do ngăn cấm người dân thành lập các đảng phái chính trị. Tôi chỉ nêu ra đây hai điểm (trong vô số điểm có thể dùng làm căn cứ để chứng minh cho điều này).

Thứ nhất, nếu ngăn cấm người dân thành lập đảng thì Đảng cộng sản cũng không có lý do để tồn tại. Đảng cộng sản không thể trả lời được câu hỏi : 

"tại sao có thể thành lập Đảng cộng sản mà không thể thành lập các đảng khác ?", 

hoặc  "Lý do nào khiến cho chỉ có một mình Đảng cộng sản có thể tồn tại mà các đảng khác thì không ?". 

Câu hỏi này là một câu hỏi không thể trả lời. Không thể tìm thấy lý do. Cả Tổng bí thư, cả Ban lý luận trung ương đảng, ngay cả Hồ Chí Minh, người thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, cũng không thể có câu trả lời.

Thứ hai, không thể có câu trả lời, bởi vì trong thực tế, chính bản thân Đảng cộng sản Việt Nam, vào thời điểm hình thành, dưới tên gọi là Đảng cộng sản Đông dương, là một tổ chức chính trị bất hợp pháp. Điều khiến cho ĐCS có thể tự hào là họ đã đấu tranh từ chỗ bất hợp pháp thành ra một đảng hợp pháp. Và một trong các mục tiêu mà ĐCS đưa ra để thu hút quần chúng đứng vào hàng ngũ của đảng là ĐCS đấu tranh cho một nền tự do trong đó người Việt Nam có quyền lập hội, lập đảng, một cách hợp pháp.

Nếu ngày nay ĐCS ngăn cấm người dân lập hội, lập đảng, thì có nghĩa ĐCS đã phản bội lại mục tiêu của chính mình, phản bội lại nhân dân, và phản bội lại chính bản thân ĐCS. Để có thể có chính danh lãnh đạo, ĐCS không thể phô bày sự phản bội đó trên giấy trắng mực đen. Vì thế mà Hiến pháp Việt Nam dù có điều khoản quy định quyền lãnh đạo của đảng cộng sản, nhưng KHÔNG THỂ đưa vào điều khoản cấm lập đảng, cấm tự do ngôn luận và cấm tự do lập hội. Trái lại, phải thừa nhận các quyền đó.

Trên thực tế, theo thống kê của Wikipédia tiếng Việt,  kể từ năm 1912 đến hiện nay, Việt Nam có 44 đảng. Điều đáng nói và có thể nhiều người chưa biết, là nhiều đảng trong số đó đã tồn tại song song với đảng cộng sản. Đáng nói hơn nữa là đảng viên của một số đảng khác đã từng tham gia vào bộ máy lãnh đạo của nhà nước Việt Nam, giữ những chức vụ quan trọng. Nghĩa là trong lịch sử của mình, bản thân ĐCS đã chia quyền lãnh đạo với các đảng khác, chứ không phải độc quyền lãnh đạo như hiện nay.

Vì không thể dài dòng, nên tôi chỉ lấy một ví dụ về Đảng dân chủ Việt Nam, thành lập năm 1944 và giải thể năm 1988, với chủ tịch là Dương Đức Hiền và Tổng thư ký là Nghiêm Xuân Yêm.

Dương Đức Hiền từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Thanh niên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Ủy ban Thường trực Quốc hội khóa I và khóa II. Nghiêm Xuân Yêm từng làm Bộ trưởng của nhiều Bộ : Nông nghiệp, Canh nông, Nông Lâm, Nông nghiệp, Bộ Nông trường; cũng từng giữ chức Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam. Trần Đăng Khoa, Phó Tổng thư ký Đảng dân chủ, từng là Bộ trưởng của các Bộ : Giao thông Công chính, Bộ Thủy lợi, của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trần Kim Lý, Cố Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư BCH Đảng bộ Đảng Dân chủ Việt Nam Thành phố Hà Nội, từng là Đại biểu Quốc hội các khoá III, IV, V, VI và Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội khóa VII. Và còn nhiều nhân vật khác nữa, không thể kể ra hết.

Rất gần đây, một số đảng khác cũng ra đời ở Việt Nam : 

Đảng dân chủ Việt Nam (Đảng dân chủ 21) do ông Hoàng Minh Chính thành lập năm 2006, 

Đảng dân chủ nhân dân do ông Đỗ Thành Công thành lập năm 2004, 

Đảng thăng tiến Việt Nam (có tiền thân là khối 8406) được thành lập năm 2006.

Như vậy, xét về mặt điều kiện pháp lý và xét về mặt thực tế, việc thành lập các đảng phái chính trị và các tổ chức chính trị là hoàn toàn có thể và hợp hiến. Vì thế, nếu ở Việt Nam không hình thành được các tổ chức chính trị hay các đảng chính trị lớn mạnh thì có thể nói, đó hạn chế của chính người dân Việt Nam. Hạn chế ở chỗ đã không thực hiện các quyền hiến định của mình. 

Đã đến lúc người Việt phải nghĩ đến việc khắc phục hạn chế này.

Paris, 30/9/2016
Nguyễn Thị Từ Huy (Blog RFA)

Bộ phận nào trong xã hội có thể đẩy nhanh quá trình dân chủ hóa? (phần IV)

Nguyễn Thị Từ Huy

Đầu năm 2016, ngay trước đại hội XII của đảng cộng sản Việt Nam, tôi có viết một loạt bài đặt vấn đề về khả năng cải cách hệ thống chính trị ở Việt Nam. Lúc đó, phải thừa nhận rằng tôi có đôi chút hy vọng khi diễn giải kết quả của đại hội như là sự thắng thế của những lãnh đạo muốn giữ một sự độc lập nhất định với Trung cộng và muốn chống tham nhũng, mà dẫn đầu là ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư tái cử. Nhưng gần một năm đã trôi qua, trong khoảng thời gian đó bao nhiêu thảm hoạ môi trường, thảm hoạ xã hội, đã xảy ra, mà không một dấu hiệu nào cho thấy hệ thống lãnh đạo có mong muốn và có đủ khả năng cải cách. Trái lại, người ta chỉ thấy sự gia tăng bắt bớ và đàn áp nhân quyền, đàn áp báo chí, và gần đây nhất, mới ngày hôm qua, chính quyền còn đàn áp cả những người dân khốn khổ, những người dân đã bị dồn vào chỗ không còn phương tiện sống.

Đến lúc này đã có thể nói rằng, vì không có năng lực cải cách, hệ thống chính trị Việt Nam (vốn đã là nguyên nhân của mọi sự suy thoái trong xã hội và là nguyên nhân của sự kìm hãm phát triển, kìm hãm mọi phương diện) đã bước vào giai đoạn trầm kha với với vô số khối u đã đến hồi di căn vô phương cứu chữa. Nhìn đâu trong xã hội cũng thấy vấn đề : giao thông ư ? y tế ư ? môi trường ư ? kinh tế ư ? khoa học ư ? sản xuất ư ? giáo dục ư ? Có lĩnh vực nào là không có lời oán thán vang lên dậy đất ? Biển chết, đồng bằng khô cạn, trong khi thành phố lại ngập lụt, bão lũ tàn phá, nhà máy thuỷ điện xả lũ khiến dân phải chết, cá không chỉ chết vì nhà máy thép xả chất độc xuống biển miền trung, hàng tấn cá còn chết trắng cả thủ đô, và nhiều nơi khác trên đất nước. Cá chết vì độc tố, và người chết vì ung thư do hàng ngày đưa chất độc vào người thông qua thực phẩm.

Một hệ thống chính trị bất lực và thất bại. Uy tín của đảng cầm quyền đã sa sút tận đáy. Chỉ cần phân tích một ví dụ, trong vô vàn ví dụ, để làm dẫn chứng cho sự bất lực của hệ thống: ví dụ về việc chống tham nhũng.

Thất bại trong việc chống tham nhũng không chỉ biểu hiện ở chỗ một tội phạm tham nhũng như Trịnh Xuân Thanh có thể trốn thoát một cách dễ dàng. Mà giả sử có bắt được Trịnh Xuân Thanh thì việc chống tham nhũng cũng vẫn sẽ thất bại như thường. Bởi vụ xử Trịnh Xuân Thanh, nếu có thể xảy ra, chỉ thành công khi chính quyền dám đưa ra toà tất cả những yếu tố liên quan, từ người lái xe cho ông Thanh, chủ sở hữu của cái xe hơi đắt tiền do ông Thanh sử dụng, đến người bố có cái công ty đã đứng tên căn biệt thự xa hoa do ông Thanh sử dụng, đến cấp trên của ông Thanh là ông Đinh La Thăng, đối tượng trong nhiều bài viết trên blog của nhà báo Huy Đức trong đó ông Huy Đức đã vạch ra cụ thể những gì ông Thăng đã làm. Và ông Đinh La Thăng là uỷ viên Bộ chính trị, cơ quan quyền lực cao nhất nước, nơi quyết định mọi vấn đề của quốc gia. 

Loạt bài của nhà báo Huy Đức đã chạm trực tiếp đến uy tín của Bộ chính trị. Để xử vụ Trịnh Xuân Thanh còn phải đụng đến tất cả các nhân vật quan trọng tại những nơi ông Thanh từng làm việc, không chỉ Dầu khí, Bộ Công thương, Tỉnh uỷ tỉnh Hậu giang, mà còn phải đụng đến cả các nhân vật đã ký duyệt thuyên chuyển công tác cho ông Thanh, sau tất cả những sai phạm mà ông đã thực hiện, đó là Ban tổ chức Trung ương. Nếu luật pháp không xử được tất cả các đối tượng liên quan, thì Trịnh Xuân Thanh có quyền nói rằng ông ta bị oan, bởi ông ta không tham nhũng một mình. Còn người dân thì không nhìn vụ việc như là một vụ chống tham nhũng, mà như là một vụ thanh trừng phe cánh trong đảng. Vì thế, nếu không xử được đến tận mắt xích cuối cùng có liên quan đến vụ việc thì không thể coi đó là một thành công, dù có bắt và xử Trịnh Xuân Thanh. Vậy, ông Đinh La Thăng có bị đưa ra xử không ? Ban tổ chức Trung ương có bị đưa ra xử không ? Nếu ông Thăng bị xử và khai ra những người khác, cao hơn ông ta, thì những người đó có bị xử không ?

Tham nhũng là con đẻ của hệ thống chính trị độc tài độc đảng, trong đó luật pháp chỉ là công cụ của đảng cầm quyền. Và một khi pháp luật chỉ là công cụ cho một đảng phái thì nó đánh mất vai trò, đánh mất giá trị, và đánh mất hiệu lực của nó. Tham nhũng chỉ có thể bị hạn chế hoặc được giải quyết khi có một nền luật pháp công minh. Một nền luật pháp công minh lại không thể tồn tại trong chế độ độc tài độc đảng. Toàn bộ sự luẩn quẩn này cho thấy rằng hệ thống chính trị độc đảng hiện tại của Việt Nam là nguyên nhân đẻ ra tham nhũng và tự nó, bản thân hệ thống, không thể giải quyết vấn đề tham nhũng. Bằng chứng là đã xử Vinashin, Vinalines, nhưng, mượn cách nói của Huy Đức, các nhân vật như Trịnh Xuân Thanh và đồng chí của ông ta lại cho ra đời những Vinashin, Vinalines khác, trong khi mà các nhân vật hưởng lợi lớn nhất từ các vụ tham nhũng thì lại không thể đụng tới. Càng chống tham nhũng, càng thất bại, tham nhũng càng phát triển và mang những bộ mặt mới, những hình thái mới.

So sánh một chút để thấy rằng, nếu Thủ tướng Manuel Valls của Pháp mà ký quyết định thần tốc một cách mờ ám cho phép một công ty hủy hoại môi trường cỡ Formosa hoạt động thì ông ta đã phải bị toà án sờ gáy từ lâu. Nicolas Sarkozy, sau khi rời khỏi ghế tổng thống liền bị gọi ra toà nhiều bận, dù rằng cho đến lúc này toà vẫn chưa có bằng chứng cho các nghi ngờ về sai phạm tiền bạc của ông ta, và vì thế ông ta vẫn ra tái tranh cử tổng thống. Nhưng giả sử các bằng chứng được thu thập thì ông ta nhất định vẫn sẽ phải hầu toà.

Đó là sự khác biệt căn bản giữa một nhà nước pháp quyền như Cộng hoà Pháp và một nhà nước đảng quyền như Việt Nam. Toà án Việt Nam bất lực, không thể sờ gáy các lãnh đạo cao cấp, vì họ được đảng độc quyền bảo trợ.
Tham nhũng sẽ tiếp tục là căn bệnh ung thư huỷ hoại dân tộc chừng nào quyền lực tuyệt đối còn nằm trong tay một đảng chính trị duy nhất, chừng nào còn chưa có tam quyền phân lập. Chừng nào mà cả ba nhánh quyền lực còn bị chi phối bởi sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng thì chừng đó mọi thứ vẫn còn tiếp tục suy thoái, tha hoá, và như những gì mà cựu Phó ban Tuyên giáo Trung ương Vũ Ngọc Hoàng đã nhìn thấy : nếu quyền lực tuyệt đối của đảng không bị kiểm soát thì đảng tất yếu sẽ suy thoái hơn nữa, và sự suy thoái của đảng sẽ dẫn tới sự sụp đổ chế độ.

Nói những điều trên để dẫn tới nhận định rằng thất bại trong việc quản lý, điều hành và giải quyết các vấn đề đất nước là điều không thể tránh khỏi khi mà Việt Nam vẫn duy trì mô hình chính trị độc tài độc đảng hiện tại. Đây là một tình thế đau xót mà chúng ta phải hình dung, bởi vì đó có thể là thực tế chờ đợi chúng ta : trước khi chế độ sụp đổ thì môi trường có thể đã bị huỷ hoại hết, dân có thể đã mất hết đường sống ; nghĩa là dân tộc có thể phải chịu nhiều hậu quả quá nặng nề trước khi chế độ sụp đổ.

Người Việt Nam, muốn tự cứu mình, không thể ngồi chờ chế độ sụp đổ.
Thất bại không thể tránh khỏi của chính quyền đương nhiệm, của đảng cầm quyền đương nhiệm, đòi hỏi ở Việt Nam phải hình thành những đảng phái chính trị khác, những đảng chính trị có khả năng giải quyết các vấn đề của quốc gia, có khả năng cứu nước, cứu môi trường, cứu dân tộc khỏi thảm hoạ diệt vong. Đòi hỏi này giờ đây đã là một đòi hỏi cấp bách, trước tình thế tuyệt vọng mà cả nước đang lâm vào hiện nay.