Tin Tổng Hợp Liên Quan đến Biển Đông và Trung cộng
(ngày 25.09.2016)
Việt Nam: Tranh chấp tại Biển Đông đe dọa hòa bình thế
giới
Phó thủ tướng kiêm ngoại trưởng
Việt Nam, Phạm Bình Minh tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 24/09/2016.
Tại phiên họp thường niên
của Đại hội đồng Liên hiệp quốc tại New York, Hoa Kỳ vào ngày 24.09, Phó Thủ tướng
kiêm Bộ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam, ông Phạm Bình Minh kêu gọi các nước có
tranh chấp trên biển Đông tự kềm chế và giải quyết những bất đồng bằng biện
pháp hòa bình.
Ông Phạm Bình Minh còn nói
rằng các bên có liên quan đến tranh chấp biển Đông phải tôn trọng luật pháp quốc
tế, trong đó có Công ước về luật biển, cũng như tôn trọng những qui trình pháp
lý và ngoại giao. Theo ông thì chủ nghĩa đa phương, luật pháp quốc tế, hoà
bình, hợp tác và phát triển là những công cụ để xây dựng một khu vực châu Á -
Thái Bình Dương hoà bình và ổn định và thịnh vượng.
Liên quan đến các vấn đề
pháp lý ở biển Đông mà ông Phạm Bình Minh đề cập, vào ngày 12 tháng Bảy vừa qua
tòa trọng tài thường trực quốc tế có trụ sở ở Hà Lan ra phán quyết có lợi cho Phi
Luật Tân. Theo đó tòa trọng tài quốc tế không công nhận cái mà Bắc Kinh gọi là
chủ quyền lịch sử của họ bao trùm trên 90% diện tích biển Đông.
Trung cộng luôn luôn cho rằng
tòa án này không có giá trị pháp lý đối với các tranh chấp chủ quyền trên biển
Đông. Trong khi đó, các quốc gia khác trong đó có Việt Nam tuyên bố rằng mình ủng
hộ phán quyết của tòa trọng tài quốc tế.
Hiện có tất cả 6 quốc gia
tranh chấp chủ quyền các hòn đảo nhỏ trên biển Đông là Việt Nam, Trung cộng, Phi
Luật Tân, Mã Lai, Brunei, và Đài Loan.
Ngoài ra ông Phạm
Bình Minh cũng thông báo, Việt Nam quyết định ứng cử làm thành viên không thường
trực Hội Đồng Bảo An nhiệm kỳ 2020-2021, tăng cường tham gia các hoạt động gìn
giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc. Việt Nam từng là thành viên không thường trực
nhiệm kỳ 2008-2009 và đã tham gia vào chiến dịch gìn giữ hòa ở Nam Sudan và Cộng
hòa Trung Phi.
Đá
Vành Khăn ở quần đảo Trường Sa đã bị Trung cộng bồi lấp, xây dựng đảo nhân tạo
trái phép với đường băng, nhà chứa máy bay và các công trình quân sự
Một nhà địa lý uy tín người Anh khẳng định những yêu
sách chủ quyền của Trung cộng ở Biển Đông và việc tạo lập khu vực duyên hải của
nước này dựa trên những sự kiện của thế kỷ XX, từ cuộc khởi nghĩa Nghĩa Hòa
Đoàn đến sự thất bại của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chứ không
phải bắt nguồn từ lịch sử lâu đời của nhà nước phong kiến Trung cộng.
Trang Học viện Hải quân Mỹ ghi nhận khẳng định này dấy
lên một số câu hỏi nóng từ phía công chúng. Trước câu hỏi cho rằng những tuyên
bố chủ quyền của Trung cộng là hợp lệ vì họ luôn tuyên bố ngang nhiên rằng “những
lãnh thổ này từ trong lịch sử đã là của chúng ta” – Bill Hayton, một học giả tại
Chatham House ở London và là tác giả của cuốn “Biển Đông, cuộc cạnh
tranh quyền lực ở châu Á” cho rằng “một trăm năm trước, người dân Trung cộng chắc chắn sẽ không cảm thấy
như vậy”. Với phần lớn lịch sử Trung cộng, Biển Đông được coi là “địa phận của cướp biển”.
Phát biểu tuần trước tại Trung tâm nghiên cứu quốc tế
và chiến lược Mỹ ở Washington D.C, ông Hayton bổ sung thêm, hiện nay “trẻ em Trung cộng được dạy rằng Bãi ngầm
James (Trung cộng gọi là Tăng Mẫu) là phần lãnh thổ xa nhất về phía nam của Trung
cộng.” Bãi ngầm này nằm dưới nước và đang bị tranh chấp bởi ba nước cùng
tuyên bố chủ quyền là Trung cộng, Đài Loan và Mã Lai. Bãi ngầm này nằm cách xa
bờ biển Trung cộng hơn 1000 dặm trong khi chỉ cách bờ biển Malaysia vỏn vẹn 50
dặm.
Trả lời câu hỏi liệu truyền thông có làm gia tăng
căng thẳng về các tranh chấp ở Biển Đông và Biển Hoa Đông hay không, ông Hayton
cho rằng: “Câu chuyện vốn bắt nguồn từ một
tuyên bố chủ quyền của Trung cộng từ đầu thế kỷ XX liên quan tranh chấp lãnh thổ
với Nhật Bản và Pháp đã biến thành vấn đề nước nào có ảnh hưởng mạnh nhất trong
khu vực, Mỹ hay Trung cộng”.
Trung
cộng đã đưa hỏa tiễn chống chiến hạm YJ-62, chiến đấu cơ J-11B ra đảo Phú Lâm ở
quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, quân sự hóa Biển Đông nhưng lại đổ lỗi cho Mỹ
và nước khác leo thang căng thẳng.
Ông Hayton cho rằng phán quyết gần đây của Tòa Trọng
tài quốc tế đối với Trung cộng nằm trong các quy định của Công ước Liên Hợp Quốc
về Luật Biển cho rằng Trường Sa không phải là quần đảo. “Không hề có ghi chép nào về những gia đình Trung cộng định cư trên quần
đảo này.” Trong khi Công ước cho rằng “phải có người sinh sống được” thì mới
gọi là đảo, do đó các thực thể địa lý ở Trường Sa không phải là đảo theo nghĩa
này.
Ông Hayton bổ sung thêm rằng Trung cộng là một trong
những nước đầu tiên ủng hộ mạnh mẽ Công ước này để ngăn chặn các nước không tự
do tuyên bố chủ quyền như những gì nước này tuyên bố với bãi cạn Scarborough.
Ông Hayton cho biết lần đầu tiên cụm từ “đường chín
đoạn” xuất hiện trong một tài liệu chính thức là năm 1946, bao gồm cả quần đảo
Trường Sa trong một tấm bản đồ năm 1947. Thời điểm trên Trung cộng đang bám vào
Hiệp ước Đồng minh nói rằng “mọi phần
lãnh thổ Nhật Bản chiếm của Trung cộng sẽ phải hoàn trả lại”. Tuy nhiên,
câu hỏi đặt ra là: “Biên giới của Trung cộng
nằm ở đâu?”
Học giả Hayton nêu rõ, cho dù Trung cộng không có
quá nhiều công việc ở Biển Đông và ngư dân nước này cũng không liên tục lui tới
các rặng san hô và bãi ngầm, Trung cộng bắt đầu vẽ các tấm “bản đồ tủi nhục quốc gia” trong giai đoạn
những thập kỷ đầu thế kỷ XX. Những tấm bản đồ này nhận vơ rằng các thực thể
trên biển do Nhật Bản, Hàn Quốc, Mã Lai và Phi Luật Tân tuyên bố chủ quyền đều
nằm dưới sự kiểm soát của Trung cộng. Cái gọi là “đường chín đoạn” đã bị chuyển
dịch vài lần nhằm mục đích khiến cho vùng lãnh thổ này có vẻ tiếp giáp phần
lãnh thổ thuộc kiểm soát của Trung cộng.
Theo ông Hayton, các quan chức triều đình Trung cộng
đầu thế kỷ XX đã đưa ra những tuyên bố đầu tiên này là nhằm thể hiện quan điểm
nước này sẵn sàng đương đầu với nước ngoài. Chính quyền phong kiến nhà Thanh
lúc bấy giờ cố gắng giành lại quyền kiểm soát lãnh thổ của mình, thường là những
đảo gần đất liền và củng cố sự ủng hộ của người dân trong nước.
Sau đó, giới chức nước Trung cộng sau này tiếp tục
thực hiện những bước đi nói trên bằng cách “cắm cờ” trên quần đảo Hoàng Sa (thuộc
chủ quyền của Việt Nam) và thể hiện với Nhật Bản và bất kỳ nước nào không tôn
trọng cái gọi là “chủ quyền và tuyên bố
lãnh thổ của Trung cộng”.
Tư lệnh Hải quân hơn 80 nước họp tại Mỹ bàn cách chống chiến tranh ở Biển Đông
Ông
Ngô Thắng Lợi, Tư lệnh Hải quân Trung cộng tham gia cuộc họp tại Hoa Kỳ, ảnh:
Nikkei Asian Review.
Nikkei Asian Review ngày 21/9 đưa tin, Tư lệnh Hải
quân từ hơn 80 quốc gia trên thế giới đang tập trung tại Hoa Kỳ tuần này để thảo
luận về các tranh chấp, căng thẳng và nguy cơ xung đột ở Biển Đông.
Đây là một hội nghị quốc tế được tổ chức hai năm một
lần tại Học viện Chiến tranh Hải quân. Hội nghị diễn ra từ 21/9 đến 23/9 sẽ tập
trung vào vấn đề tự do hàng hải. Tư lệnh Hải quân Trung cộng Ngô Thắng Lợi cũng
được mời tham dự hội nghị.
Trong bối cảnh ám ảnh xung đột Trung – Mỹ trên Biển
Đông ngày càng tăng, câu hỏi đặt ra là làm thế nào để tránh được xung đột, đối
đầu.
Cả hai phía Washington và Bắc Kinh đều đang thiếu một
phương tiện để ngăn chặn chính mình rơi vào một cuộc chiến ở Biển Đông.
Kết quả từ những phiên hội thảo và các hoạt động
nghiên cứu chiến lược tương tự sẽ được báo trở lại Ngũ Giác Đài, làm căn cứ sử
dụng lập kế hoạch phòng thủ chiến lược cho hải quân Mỹ.
Lo ngại nguy cơ chiến
tranh Trung – Mỹ ở Biển Đông gia tăng
Mỹ lập luận rằng, hoạt động xây dựng các tiền đồn
quân sự (bất hợp pháp) và đòi yêu sách 90% diện tích Biển Đông từ phía Trung cộng
đang đe dọa tự do hàng hải, thương mại quốc tế.
Giám đốc Học viện Chiến tranh Hải quân, Đô đốc Jeffrey Harley nhận định:
“Một số người tin rằng, một cuộc xung đột
với Trung cộng chắc chắn không thể tránh khỏi. Trong khi một sức mạnh tiếp tục
gia tăng, chúng ta có thể tìm thấy không gian trên thế giới bằng cách tuân thủ
luật pháp quốc tế.”
Rand Corporation, một tổ chức nghiên cứu của Mỹ nhận
định, quân đội Hoa Kỳ sẽ chiếm ưu thế trong bất kỳ cuộc chiến nào ở thời điểm
hiện nay (với Trung cộng), hơn là đợi 1 thập kỷ nữa tính từ bây giờ, khi quân đội
Trung cộng lớn mạnh hơn.
Năm 2015, Trung tâm nghiên cứu Belfer thuộc Đại học
Harvard công bố một kết quả nghiên cứu, trong đó nhận xét, nhiều trường hợp một
siêu cường mới nổi thách thức một siêu cường hiện có, thường cuối cùng hay nổ
ra chiến tranh.
Trong thế kỷ trước, điều này ứng với trường hợp của
nước Đức ở châu Âu và Nhật Bản ở châu Á. Graham Allison, người đứng đầu nhóm
nghiên cứu cho biết:
“12 trong số 16 trường hợp trong 500 năm
qua đều có kết quả là chiến tranh nổ ra. Để tránh được chiến tranh, đòi hỏi các
bên nỗ lực rất lớn, điều chỉnh thái độ và hành động.”
Tính đến nay, cả Bắc Kinh lẫn Washington đều chưa điều
chỉnh thái độ hay hành động, chủ yếu vì hai bên nhìn nhận vấn đề Biển Đông theo
các lăng kính khác nhau.
Biển Đông sẽ là nơi thử nghiệm, nếu không có sự thay
đổi đáng kể từ hai phía, nguy cơ xung đột có thể nổ ra..
Vẫn có những quan điểm lạc
quan về khả năng kiểm soát xung đột Biển Đông
Theo nhận định của nhà nghiên cứu Denny Roy từ Trung
tâm Đông – Tây, Honolulu bình luận trên The National Interest ngày 21/9, các
nhà lãnh đạo Trung cộng đang làm dấy lên chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hiếu chiến
trong chính sách đối ngoại để thu hút sự chú ý của dư luận trong nước khỏi những
bất mãn về đối nội.
Nhận thức được điều này không phải là lý do để Hoa Kỳ
và các đồng minh thu mình lại trước những hành động bất hợp pháp của Bắc Kinh.
Có thể các nhà lãnh đạo Trung cộng sẵn sàng hoặc thậm
chí tìm kiếm một cuộc đối đầu quân sự, xem đó như một phương tiện chuyển hướng
sự chú ý của dư luận trong nước khỏi các vấn đề đối nội.
Tuy nhiên Trung Nam Hải sẽ phải tính đến những khó
khăn kinh tế, bất ổn xã hội nếu để đất nước rơi vào một cuộc chiến tranh.
Học giả Wang Jisi, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến
lược quốc tế, Đại học Bắc Kinh, Trung cộng thì có một cái nhìn tích cực hơn.
Theo bài phân tích của ông trên The Huffington Post
ngày 21/9, Trung – Mỹ vừa hợp tác, vừa cạnh tranh trong một “trạng thái bình
thường mới”.
Chính phủ, các cơ quan nghiên cứu và xã hội dân sự
hai nước nên mở rộng đối thoại để giảm nghi ngờ lẫn nhau.
“Mỹ nên chọn Nam Dương làm trọng tâm “xoay trục” sang châu Á”
Tổng
thống Nam Dương Joko Widodo trong một lần thị sát chiến hạm ngoài khơi Natuna. Ảnh:
gisreportsonline.com.
Nhà nghiên cứu an ninh quốc gia Mỹ Stanley A. Weiss
ngày 23/9 bình luận trên The Huffington Post, đã đến lúc Mỹ “xoay trục” sang Nam
Dương trong bối cảnh Trung – Nga vừa có cuộc tập trận chung ở Biển Đông, còn Tổng
thống Phi Luật Tân Rodrigo Duterte cấm hải quân nước này tuần tra chung với Hoa
Kỳ ở Biển Đông.
Bất cứ ai trở thành Tổng thống tiếp theo của Hoa Kỳ
vào năm tới, làm thế nào để tái khẳng định sức mạnh Mỹ trong khu vực châu Á –
Thái Bình Dương vẫn là điều quan trọng.
Người mà vị Tổng thống thứ 45 của Hợp chúng quốc Hoa
Kỳ có thể “chọn mặt gửi vàng” chính là ông Joko Widodo, Tổng thống Nam Dương.
Stanley A. Weiss lập luận, không có quốc gia Đông
Nam Á nào tốt hơn Nam Dương trong việc cung cấp cho Mỹ những gì cần thiết ở Biển
Đông để cân bằng với liên minh Trung – Nga, không chỉ bởi vị trí chiến lược, mà
còn bởi nền kinh tế tăng trưởng mạnh của đất nước vạn đảo.
Đồng thời Nam Dương cũng là một quốc gia Hồi giáo
chiếm đa số, lựa chọn quốc gia này sẽ giúp Mỹ chứng minh cho thế giới thấy, nền
dân chủ phương Tây và thế giới Hồi giáo hoàn toàn có thể chung sống hòa bình và
hợp tác, phát triển.
Nam Dương cùng với 4 quốc gia thành viên ASEAN khác
đã bị yêu sách đường lưỡi bò Trung cộng ở Biển Đông xâm hại. Đáng ngại nhất là
hiện nay Trung cộng đã xây dựng 7 đảo nhân tạo (bất hợp pháp) và quân sự hóa Biển
Đông, đe dọa nghiêm trọng an ninh khu vực.
Phán quyết Trọng tài vụ kiện Biển Đông giữa Phi Luật
Tân và Trung cộng hôm 12/7 đã bác bỏ yêu sách đường lưỡi bò. Tuy nhiên, Trung cộng
vẫn tiếp tục phát triển lực lượng hải cảnh và tàu cá đổ xuống Biển Đông, mà Nam
Dương cũng là một nạn nhân. Trong 5 năm qua, số vụ đụng độ giữa hải quân Nam
Dương với tàu cá Trung cộng (có những trường hợp có tàu hải cảnh Trung cộng hộ
tống) thường xảy ra trong vùng đặc quyền kinh tế Natuna của Nam Dương.
Từ năm 2014, ông Joko Widodo cùng Bộ trưởng Thủy sản
Susi Pudjiastuti đã cho đánh chìm 220 tàu cá nước ngoài xâm phạm và đánh bắt
trái phép, một thông điệp không thể nhầm lẫn nhằm vào Bắc Kinh.
Tháng Sáu vừa qua để củng cố thêm sức mạnh, ông Joko
Widodo đã có chuyến thị sát, làm việc trên chiến hạm ngoài khơi đảo Natuna.
Do đó theo Stanley A. Weiss, hiện tại là thời điểm
thích hợp cho Mỹ tăng cường quan hệ với Jakarta. Washington có thể làm điều này
qua 4 cách.
Đầu tiên, Tổng thống tiếp theo của Hoa Kỳ nên đến
thăm Nam Dương càng sớm càng tốt, đồng thời thể hiện rõ lập trường, ưu tiên
hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Mỹ 4 năm tới là Nam Dương.
Thứ hai, Mỹ nên hỗ trợ sự quyết đoán mới nổi của Nam
Dương trong vấn đề Biển Đông, bao gồm giúp đỡ nước này nâng cao khả năng tuần
tra trên biển, cả về phương tiện tàu thuyền lẫn huấn luyện đào tạo.
Ba là, tăng cường hợp tác kinh tế thương mại với Nam
Dương, bởi lẽ lâu nay vẫn tồn tại một nỗi sợ hãi rằng Nam Dương ngày càng phụ thuộc
trong quan hệ kinh tế với Trung cộng, có thể buộc Jakarta phải thỏa hiệp trong
vấn đề Biển Đông.
Mỹ nên đầu tư vào giáo dục và phát triển, hỗ trợ và
cổ vũ tinh thần khởi nghiệp, cung cấp cho Jakarta sự thay thế vai trò của Trung
cộng trong chiến lược cải thiện chất lượng nền kinh tế.
Báo chí Canada: Trung cộng đã lập 2 “vùng nhận dạng”, khai triển 3
tàu ngầm Type 094 ở Biển Đông
Báo Canada cho rằng Trung cộng đang từng bước thiết
lập "vùng nhận dạng âm thanh nước" và "vùng nhận dạng hàng hải",
đồng thời có thể công bố thiết lập ADIZ vào năm 2017.
Từ
ngày 19 – 21/7/2016, một sư đoàn không quân Hạm đội Nam Hải, Hải quân Trung cộng
tiến hành tập trận bắn đạn thật trên Biển Đông. Ảnh: Chinanews
Tờ nguyệt san Kanwa Defense Review của Canada vừa có
bài viết cho rằng Hải quân Trung cộng đang từng bước thiết lập cái gọi là “vùng
nhận dạng âm thanh nước” và “vùng nhận dạng hàng hải” ở Biển Đông để sớm do
thám tàu ngầm của Mỹ và Nhật Bản, đồng thời qua đó ngăn chặn tàu ngầm tiến vào
vùng biển Đài Loan từ hướng bắc. Trung cộng sẽ không công khai tuyên bố những
vùng nhận dạng này.
Vùng nhận dạng âm thanh nước tức là xây dựng vùng nhận
dạng chủ yếu sử dụng thiết bị định vị thủy âm kéo và thiết bị định vị thủy âm
đáy biển ở các đảo đá, chủ yếu dò tìm tàu ngầm của Mỹ, Nhật Bản và các nước
Đông Nam Á đi vào những nơi mà Trung cộng tự coi là “lãnh hải” và “vùng đặc quyền
kinh tế” của mình. Vùng nhận dạng này sẽ thiết lập (bất hợp pháp) ở đảo Phú Lâm
thuộc quần đảo Hoàng Sa (Việt Nam).
Tờ Kanwa Defense Review còn cho rằng hiện nay Quân đội
Trung cộng khai triển cả 3 tàu ngầm động cơ hạt nhân lắp hỏa tiễn Type 094 ở đảo
Hải Nam. Điều này có nghĩa là tác dụng quân sự của vùng nhận dạng âm thanh nước
còn có tính chiến lược.
Tàu
ngầm hạt nhân chiến lược Type 094 của Hải quân Trung cộng. Ảnh: Sohu
Quân đội Trung cộng sẽ tận dụng nước sâu của Biển
Đông để các tàu ngầm hạt nhân chiến lược đi lại giữa đảo Hải Nam với đảo Phú
Lâm (thuộc chủ quyền của Việt Nam do Trung cộng chiếm đóng trái phép), làm cho
hệ thống săn ngầm của Mỹ khó có thể tiếp cận những khu vực này.
Một khi tàu ngầm, tàu mặt nước của Quân đội Mỹ tiến
hành vào hai vùng nhận dạng trên, Hải quân Trung cộng sẽ lập tức theo dõi.
Theo phân tích của Kanwa, việc xây dựng hai loại
vùng nhận dạng này của Trung cộng ở Biển Đông có ý nghĩa quân sự hơn so với thiết
lập “vùng nhận dạng phòng không”.
Trung cộng cũng sẽ xây dựng (bất hợp pháp) nhiều hơn
radar tìm kiếm đối hải, thiết bị dò tìm âm thanh nước, thiết bị định vị thủy âm
kéo ở trên các đảo đá chiếm đóng cùng với hệ thống định vị thủy âm đáy biển ở
đá ngầm vòng.
Tờ Kanwa năm nay từng cho rằng Trung cộng đã quyết định
phạm vi bao quát của cái gọi là “Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) Biển Đông”,
có thể chính thức tuyên bố vào năm 2017.
Trung
cộng được cho là xây dựng bất hợp pháp radar cao tần ở đá Châu Viên thuộc quần
đảo Trường Sa của Việt Nam. Ảnh: AMTI/CSIS
Nguyên tắc cơ bản phân chia vùng nhận dạng này là “lấy
vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của đảo Hải Nam, 7 đảo nhân tạo và đảo
Phú Lâm (thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam) làm tiêu chuẩn.
Trung cộng trước đây cất quân xâm lược quần đảo
Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa của Việt Nam, nhảy vào tranh chấp Biển
Đông, gây ra điểm nóng Biển Đông hiện nay.
Trung tuần tháng 9/2016, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản
Tomomi Inada thăm Mỹ, cho biết Hải quân Mỹ và Nhật Bản sẽ tiến hành tuần tra
chung ở Biển Đông.
Chuyên gia Trung cộng dọa nạt rằng nếu tàu chiến Mỹ
và Nhật Bản xuất hiện ở vùng biển và vùng trời các đảo đá có liên quan, “Trung cộng sẽ áp dụng biện pháp cứng rắn. Nếu
xung đột xảy ra thì Nhật Bản phải chịu trách nhiệm hoàn toàn”.
Biển Đông : Mỹ cần áp dụng một loạt biện pháp mới chống Trung cộng
Các tàu nạo vét của Trung cộng tại
Đá Vành Khăn. Ảnh chụp từ phi cơ trinh sát P-8A Poseidon của Hải quân Mỹ ngày 21/05/2016.
REUTERS
Nhân cuộc điều trần hôm 21/09/2016 tại Hạ Viện Mỹ,
ba chuyên gia hàng đầu của Mỹ về Biển Đông đã phê phán các thiếu sót trong đối
sách của Mỹ chống lại sự bành trướng của Trung cộng trên Biển Đông. Điểm lý thú
là các chuyên gia này đã đề xuất nhiều biện pháp rất cụ thể, cả về pháp lý,
chính trị hay quân sự, được cho là có tác dụng răn đe Bắc Kinh nhiều hơn.
Về pháp lý, tiến sĩ James Kraska, giáo sư luật quốc
tế tại Học Viện Hải Chiến Hoa Kỳ (US Naval War College) cho rằng chính quyền
Obama đã hoàn toàn sai lầm khi chỉ gọi các yêu sách chủ quyền của Trung cộng tại
Biển Đông là « quá đáng », mà không dám gọi thẳng đó là «
phi pháp ».
Đối với giáo sư Kraska, Hoa Kỳ cần phải làm rõ vấn đề
cách gọi, vì yêu sách chủ quyền của Trung cộng không chỉ là « quá mức » mà
là « bất hợp pháp ». Do vậy ông Kraska đề nghị : « Chúng ta
phải nói thẳng, phải loại bỏ các từ ngữ quá ngoại giao, vì điều đó chỉ nuôi dưỡng
sự mơ hồ và hoài nghi, có lợi cho Trung cộng ».
Còn bà Bonnie Glaser, chuyên gia nghiên cứu châu Á tại
Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc Tế CSIS, thì nhấn mạnh trên tác hại của
thái độ quá thận trọng của chính quyền Obama đối với Trung cộng trong thời gian
qua. Bà Glaser nêu bật việc chính quyền Obama đã dành ưu tiên hợp tác với Trung
cộng trong lãnh vực biến đổi khí hậu và thỏa thuận hạt nhân Iran, vì thế đã
không dám cứng rắn đối với Bắc Kinh trong hồ sơ Biển Đông.
Thế nhưng theo chuyên gia này, chính quyền Mỹ đã sai
lầm khi cho rằng quá cứng trên vấn đề Biển Đông sẽ hại cho các hồ sơ khác cần sự
hợp tác của Trung cộng. Đối với bà Glaser Mỹ hoàn toàn « có thể làm cả
hai việc cùng một lúc, và nhất thiết phải nói nói rất rõ cho Trung cộng biết rằng
hành vi của họ không thể chấp nhận được. »
Về phương diện quân sự, các chuyên gia đều chỉ trích
thể thức « qua lại vô hại » (innocent passage) mà Hải Quân Mỹ đã
áp dụng trong ba chuyến tuần tra bên trong vùng 12 hải lý của các đảo nhân tạo
do Trung cộng bồi đắp tại Trường Sa.
Đối với giáo sư luật Kraska, Hoa Kỳ không nên dùng
thủ tục yếu nhất để thách thức đòi hỏi chủ quyền vô lý của Trung cộng, vì rõ
ràng là Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển không công nhận lãnh hải chung các
đảo nhân tạo của Trung cộng.
Giáo sư Kraska đề nghị là Hoa Kỳ phải cho phi cơ bay
qua các đảo nhân tạo trong tay Trung cộng ở Trường Sa, chẳng hạn như qua Đá
Vành Khăn (Mischief Reef), và tiến hành nhiều cuộc tuần tra hơn vì quyền tự do
hàng hải trong khu vực, một mình hay với nước khác.
Riêng tiến sĩ Andrew Erickson, giáo sư tại Viện
Nghiên Cứu về Hàng Hải Trung cộng cũng thuộc Học Viện Hải Chiến Mỹ, thì phê
phán các quan chức Mỹ không dám thừa nhận một cách công khai là ngoài lực lượng
Hải Quân và Hải Cảnh, Trung cộng còn có một lực lượng thứ ba đang giúp Bắc Kinh
thâu tóm Biển Đông : Đó là lực lượng « dân quân biển ». Đối với
chuyên gia này, Washington phải cấp tốc đề ra một chiến lược toàn diện hơn để đối
phó với Bắc Kinh.
Trong chiến lược toàn diện này có vấn đề pháp lý và
giáo sư Kraska gợi ý rằng nếu Trung cộng không sẵn sàng chấp nhận phán quyết của
Tòa Trọng Tài Thường Trực, thì các nước vẫn có thể kiện Trung cộng ra các tổ chức
quốc tế khác về các vi phạm mà Tòa Trọng Tài nêu bật.
Tổ chức Hàng Hải Quốc Tế có thể xét xử vụ Hải Cảnh
và dân quân biển Trung cộng vi phạm các quy định quốc tế về phòng ngừa va chạm
trên biển (COLREGS), Tổ Chức Hàng Không Dân Dụng Quốc Tế có thể xử lý các vi phạm
mã số bay, và Tổ chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc có thể phán quyết về việc biến
tàu cá thành công cụ của quân đội.
Theo tin VOA, RFA, RFI