Sáng Tác Như Một Chia Sẻ Hạnh Phúc
Phỏng Vấn Nhạc Sĩ Từ Công Phụng
Trịnh
Thanh Thủy
Khi những giọt lệ nhỏ xuống
cho niềm đau thăng hoa thành một thứ nguyên sinh chăm bón cho cây hạnh phúc con
người trổ trái thì chúng ta có thể mang niềm đau ấy theo ta như một hành trang
vỗ về cho cuộc đời. Rung một cánh nhạc buồn ;Rơi một
ngấn lệ sầu ;Có ai hay người khóc trong tinh cầu lẻ loi…Gom môt chút nắng vàng
; Hát lên soi hạnh phúc trên tháng ngày đã qua. (trên
tháng ngày đã qua/ Từ Công Phụng ).
Từ Công Phụng đã rung những
cánh nhạc, gom sương sớm, nắng mai để soi tìm hạnh phúc cho những tâm hồn rạn vỡ
vì đớn đau chất ngất. Ông đã dùng cung bậc buồn của một chiếc que diêm thắp
sáng hương tình đằm thắm trên những đêm sâu, những cõi buồn, ngô nghê tan hoang
và tàn vỡ. Ông hát và sáng tác nhạc như một chia sẻ hạnh phúc, kể cả những hạnh
phúc thấm đẫm niềm đau.
Từ Công Phụng là một nhạc
sĩ Việt Nam (gốc Cham-Islam) nổi tiếng. Nói đến Từ Công Phụng, khán thính giả
miền Nam Việt Nam trước 75 không quên hình ảnh và tiếng hát trầm ấm, rất đặc
thù của ông trong những ca khúc do chính ông sáng tác. Giữa những dòng nhạc mới
khai sinh dậy lên trong thập niên 1960, 1970 của Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Trịnh
Công Sơn và Lê Uyên Phương.., dòng nhạc Từ Công Phụng khi hạnh phúc khi chất ngất
đau thương, lãng đãng trôi góp tiếng cùng tuôn chảy. Những "Bây giờ tháng mấy", "Mắt lệ cho người",
"Giọt lệ cho ngàn sau", "Trên ngọn tình sầu", "Mùa
xuân trên đỉnh bình yên” là những nhạc phẩm tiêu biểu của ông.
Nhạc sĩ Từ Công Phụng
tham gia hoạt động sáng tác từ năm 1960. Ông học Luật và Văn Khoa và từng là
biên tập viên đài phát thanh Tiếng Nói Tự Do(VOF). Trong thời gian học Đại học
Văn Khoa, ông thường sinh hoạt ở Quán Văn trong khuôn viên Văn Khoa từ 1968,
cùng thời với Khánh Ly và Trịnh Công Sơn và đã thu một Cuốn băng(Tơ Vàng 3)vào
năm 1971. Ông rời Việt Nam từ tháng 10 năm 1980 và hiện đang định cư tại
Portland, Oregon, Hoa Kỳ.
Trịnh Thanh Thủy: Trước
năm 1975 anh cùng nhạc sĩ Lê Uyên Phương thành lập ban nhạc “Ngàn Thông“,
chơi trên đài phát thanh Đà Lạt, xin anh kể về hoạt động này, ngày ấy.
Từ Công Phụng: Những
ngày tháng tôi sống ở Đà Lạt, vào năm 1965 tôi có chơi nhạc với anh Phương tức
Lộc. Chúng tôi có thành lập một ban nhạc nhỏ tên “Ngàn Thông”, mỗi tuần 1 ngày
lên đài phát thanh, thu và phát trực tiếp. Thời sinh viên ấy mà, chúng tôi chỉ
chơi cho vui.
TTT: Anh
hát nhạc của ai?
TCP: Đặc
biệt trong quãng đời sinh hoạt văn nghệ của tôi, tôi chỉ hát toàn nhạc mình viết
thôi, hiếm khi hát nhạc người khác. Anh Lộc (Lê Uyên Phương) cũng vậy.
TTT: Xin
cho biết quá trình sáng tác một ca khúc của anh. Khi một ý tưởng hay cảm hứng tới
anh bắt đầu một nhạc phẩm như thế nào? Giai điệu hay ca từ đi trước?Anh mất bao
lâu cho một ca khúc?
TCP: Tôi
sáng tác tùy lúc, tùy hứng khởi mà viết. Thường là giai điệu trước, sau đó mới
khai triển và tìm ca từ sau. Hoặc có khi, ca từ thành hình trước trong đầu rồi
nương theo đó mà viết giai điệu. Có hai cách như thế nên hứng đến bằng cách nào
thì làm theo cách đó. Thời gian thì một ca khúc có khi mất 1, 2 ngày mới xong,
khi chỉ vài tiếng đồng hồ, tùy theo cảm hứng. Bài lâu nhất mất vài tháng, vì phải
chăm đi chăm lại.
TTT: Tôi
nhận thấy trong thập niên đầu mới sáng tác, dòng nhạc tình của anh có âm hưởng
hạnh phúc, êm đềm, ca từ lãng mạn, tươi đẹp, yên bình. Tuy nhiên càng về sau, nội
dung các ca khúc của anh có khuynh hướng đổi chiều qua những triết lý nhân
sinh, lẽ vô thường và thân phận con người. Xin anh cho biết lý do về sự xoay
chiều này.
TCP: Thực
ra điều đó có xảy ra cũng vì nó xoay vần theo chiều hướng của cuộc sống mà phát
triển thôi. Nghĩa là khi tôi còn là một sinh viên, một thanh niên mới lớn, cái
nhìn về tình yêu còn lãng mạn nên khi sáng tác, nhạc tình của tôi đầy hạnh
phúc. Tuy nhiên khi đã sống nhiều hơn, từng trải thì sự suy nghĩ thay đổi, xoay
chiều và thuận theo lẽ tự nhiên của dòng đời trôi chảy, nên nét nhạc có thay đổi.
TTT: Thập
niên 70, chiến cuộc gia tăng, đời sống học sinh, sinh viên xáo trộn, triết lý
hiện sinh du nhập vào Việt Nam. Một số giới trẻ bị Âu hoá, chạy theo phong trào
Hippy, sống thác loạn và bất cần ngày mai. Là một sinh viên ngành Luật, anh và
dòng nhạc anh có bị ảnh hưởng không?
TCP: Với
tôi giai đoạn như thế không ảnh hưởng đến tôi và dòng nhạc. Tôi quan niệm một
cách đơn giản và dễ dàng lắm. Sống không phải là thác loạn, sống phải nghiêm
túc, có niềm tin, dựa vào một căn bản cho đời sống mình, không được buông thả.
Chính tôi cũng không thích buông thả, cái gì cũng phải đâu vào đó. Đời sống
buông thả với tôi là một bệnh hoạn, nó không làm cho xã hội tốt đẹp hơn. Tôi cố
giữ bản chất mình, nên đời sống của tôi bình lặng. Tôi quan niệm mang lại hạnh
phúc cho đối tượng của mình, nên những gì tôi thổ lộ trong âm nhạc và ca từ của
tôi, chẳng qua tôi muốn chia sẻ hạnh phúc đến với tất cả mọi người. Hơn nữa dù
có gì xảy ra tôi không chán chường đến độ buông thả và giữ chừng mực cho hạnh
phúc mình không bị chao đảo.
TTT: Chữ
“Em”trong những ca khúc của anh có phải từ những nhân vật của những cuộc tình
qua đời mình, một hình bóng, một người nữ nào hay chỉ là một tiếng gọi?
TCP: Nói
chung từ “Em” trong đó có ý mông lung hoặc khi tôi nhớ lại một thời nào đó
trong đời sống mình, chứ không nhất thiết là hình ảnh một người tình nào đó nhất
định. Ví dụ như tôi viết “Ai chia giọt nắng se buồn, như ta rồi cũng xa nguồn,
làm sao cho em biết tình ta vẫn lấp lánh trong khung trời bát ngát. Làm sao cho
em biết tình ta như núi biếc, như sông dài biển rộng.” Do đó chữ “Em” chỉ là một
tiếng gọi.
TTT: Trước
75, anh đã từng làm biên tập viên cho đài VOF với các nghệ sĩ nổi tiếng như Kim
Tước, Hồ Đăng Tín, Lê Gia Thẩm và Hoàng Quốc Bảo. Xin anh cho nghe về sinh hoạt
đời sống thường nhật đó.
TCP: Tôi
có làm cho đài phát thanh VOF và cùng làm với chị Kim Tước, cũng về âm nhạc
nhưng mỗi người phụ trách một chuyên mục khác nhau. Chị Kim Tước lo một chương
trình nhạc Tây Phương. Chị biên tập những bài hát ngoại quốc, viết và dẫn giải
về văn hoá và âm nhạc xứ đó cho tường tận. Còn tôi thì viết lời giới thiệu các
bản nhạc Việt Nam.
TTT: Xin
lỗi cho T ngắt lời anh, T là hậu bối nên chưa và nghe biết về đài phát thanh
này, xin anh cho biết sơ qua về đài phát thanh và ý nghĩa của “VOF”. Hình như mục
đích và những thông điệp nó chuyển tải có tính chính trị?.
TCP: Đài
phát thanh Đài VOF tượng trưng cho Voice Of Freedom tức đài Tiếng Nói Tự Do trực
thuộc Đài Mẹ Việt Nam do Hoa Kỳ tài trợ. Trụ sở của đài này đặt ở số 7 đường Hồng
Thập Tự, Sài Gòn. Các trạm phát sóng của nó đặt ở Thủ Đức, Cát Lở, Vũng Tàu và
Thanh Lam, Huế. Để thực hiện chương trình chiến tranh tâm lý, đài Mẹ Việt Nam
chủ trương hoàn toàn về chính trị và thông tin còn đài Tiếng Nói Tự Do phát
sóng chuyên về văn nghệ và tin tức. Chúng tôi làm việc với giám đốc là ông Vũ
Quang Ninh và rất nhiều văn nghệ sĩ khác như Linh Sơn, Lê Tuấn, Lữ Liên, Phạm
Long, Kim Tước, Hoàng Quốc Bảo, Vũ Đức Duy, Vũ Huyến, Bạch Yến, Anh Ngọc…
Mục
tiêu việc làm của chúng tôi là phát thanh về miền Bắc những sản phẩm tinh thần
của người tự do cho ngoài ấy nghe để họ hiểu ở trong Nam chúng tôi có tự do. Muốn
nghe loại nhạc nào, thích thì nghe, hát cũng vậy, thích loại nhạc nào thì hát
loại nhạc đó. Tình cảm hay tiền chiến đều được cả. Nó cũng chuyển tải một thông
điệp hay tuyên truyền về sự tự do trong lối diễn đạt tình cảm của con người, về
tiếng nói tự do của trái tim và khối óc để khuyến khích tinh thần người nghe rằng
“Hãy tự do lên” .
Chúng tôi cũng muốn chia sẻ những sinh hoạt, những gì xảy ra
trong đời sống người dân trong Nam cho ngoài Bắc biết. Chúng tôi phát thanh về
Bắc nhạc tiền chiến, nhạc trẻ, nhạc Pháp và Tây Phương. Bởi vì chúng tôi nghĩ
ngoài ấy không được nghe nhạc tình cảm và tiền chiến. Chúng tôi phát cả những
bài nhạc tiền chiến của các tác giả quen thuộc với miền Bắc mà những tác giả
này ở lại miền Bắc nhưng họ bị cấm đoán không được nghe và sáng tác nhạc của họ.
TTT: Như
vậy vai trò của âm nhạc khi ấy có tính cách chiêu hồi?
TCP: Đúng
vậy, âm nhạc miền Nam tự nó có tính chiêu hồi. Tôi được biết qua những người hồi
chánh đã kể lại người dân Bắc vẫn nghe lén và họ rất thích dù chính quyền miền
Bắc dùng mọi cách để ngăn chặn. Trước đó có đài Gươm Thiêng Ái Quốc, nó khơi dậy
lòng căm phẫn của nhân dân miền Bắc đối với chế độ Cộng Sản. Còn đài Mẹ Việt
Nam khơi lại lòng yêu thương của người mẹ có những đứa con đi chiến đấu không về,
“Sinh Bắc, tử Nam”.
TTT: Nói
đến đời sống của một nghệ sĩ, giai đoạn khó khăn nhất của anh là khi nào?
Làm sao anh có thể thoát ra? Âm nhạc có giúp gì cho anh không?
TCP: Nói
về nỗi khó khăn, mỗi người có một định mệnh khác nhau. Đến một lúc nào đó mỗi
người trong chúng ta phải trải qua những thăng trầm của cuộc sống. Nó có nguyên
nhân từ bên ngoài và tác động đến bên trong của mình. Cái tôi gặp trắc trở nhất
trong đời là lúc miền Nam thất thủ, giai đoạn từ 1975 tới 1980. Khi ấy đời sống
của tôi trở nên bất ổn. Không có gì bám víu vào mà sinh sống nên việc mưu sinh
rất vất vả. Phải làm bất cứ gì có thể để nuôi sống con cái và gia đình. Thời
gian này ăn còn không đủ, tâm trí đâu mà sáng tác nhạc. Tuy nhiên vì âm nhạc là
sở thích của tôi nên tôi rất quí âm nhạc. Qua bao nhiêu thập niên tôi vẫn giữ
được mức sáng tác tuy không nhiều nhưng vẫn đeo đuổi nó, giống như một lần tôi
có nói với các bạn trẻ rằng “Nếu
các bạn thích nhạc thì hãy sống với nó, sống thực tình và đeo đuổi nó, thì các
bạn sẽ thành công”. Khi có hứng, ý tưởng sáng tác đến, nhưng tôi chỉ giữ
kín trong đầu, trong sâu thẳm tâm tư đời sống mình. Nếu có viết cũng không để lộ
vì bị cấm. Sau này khi ra hải ngoại mới dám cho phổ biến.
Khi đến Mỹ và định
cư, tôi viết bài “Khi tôi đến nơi đây” là bài
hát đầu tiên ở Hoa Kỳ. “Khi tôi đến nơi đây nắng
rực rỡ ngoài khoang trời xa,/ và lòng tôi thấy rộng mở những thiên đường….tôi
đã thấy trái tim hiền hòa/tôi đã thấy nụ cười bao dung/ tôi nghe biết những bài
tình ca của đất nước thanh bình…” Khi tôi trình bày bài này, tôi thấy
khán giả xúc động và khóc, tôi cũng xúc động như họ. Từ đó tôi bắt đầu viết lại
những gì tôi nghĩ khi trước và sáng tác trở lại.
TTT: Xin
cám ơn anh, và chúc anh an bình cùng những sáng tác ngày càng sung mãn hơn.