Trung cộng : Siêu cường số 1 trên biển về mặt dân sự ?
Ảnh
minh họa : Cảnh cảng nước sâu Vương Sơn, khu tự do mậu dịch Thượng Hải. Ảnh chụp
ngày 24/09/2016. 6 trong số 10 thương cảng quan trọng nhất trên thế giới đều nằm
ở Trung cộng.Reuters
Trong bài « Trung cộng
xây dựng đế chế trên biển như thế nào ? »,
tuần báo Pháp Courrier International
ngày 02/02/2017 ghi nhận việc , Bắc Kinh đã bỏ ra hàng tỷ đô la để xây dựng mạng
lưới cảng và bảo đảm an ninh cho các tuyến hàng hải mà tàu thuyền Trung cộng sử
dụng trên thế giới. Courrier International đã giới thiệu một phóng sự điều tra
của nhật báo Anh Financial Times cho thấy rõ chiến lược
Trung cộng áp dụng để trở thành một siêu cường trên biển qua hai bước : kiểm
soát mặt biển bằng các phương tiện dân sự, trước khi áp đặt quyền thống trị bằng
Hải Quân. Theo tờ báo, bước một của Trung cộng coi như đã hoàn thành.
Bài viết lấy khởi điểm từ cảng Gwadar, Pakistan, bên
bờ biển Ả Rập, sát các con đường vận chuyển dầu hỏa nhập khẩu của Trung cộng :
tuyến đường này mà bị tắc nghẽn thì kể như nền kinh tế thứ hai thế giới bị nghẹt
thở. Cảng này được Trung cộng tài trợ, xây dựng và chiếm hữu đã trở thành một địa
điểm chiến lược. Islamabad và Bắc Kinh từng cực lực chối cãi là không hề theo
đuổi mục tiêu quân sự nào liên quan đến cảng Gwadar, cho đấy chỉ nhằm mục tiêu
thương mại, thế nhưng mặt nạ đã bắt đầu rơi xuống.
Một viên chức ngoại giao ở Islamabad, thủ đô
Pakistan, đã giải thích : « Với sự phát triển của Gwadar, việc các tàu Trung
cộng qua lại, thương thuyền cũng như tàu chiến, sẽ gia tăng trong khu vực. Dù
không có dự án xây dựng một căn cứ Hải Quân Trung cộng thường trực, nhưng quan
hệ hai bên đang mở rộng qua lãnh vực biển ».
Thật ra thì Gwadar nằm trong một mô hình to lớn mà
chủ tịch Trung cộng Tập Cận Bình đã thiết kế để biến Trung cộng thành một siêu
cường trên biển. Cảng Gwadar còn nối liền với miền tây Trung cộng bằng nhiều
con đường trên bộ, đồng thời cũng nằm trong đề án « con đường tơ lụa mới »
của Bắc Kinh.
Trung cộng : Nhà điều hành
hải cảng hàng đầu trên thế giới
Theo điều tra của Financial Times, Trung cộng đã có rất nhiều
tiến bộ trong việc thực hiện đề án này trong vòng 6 năm gần đây và nước này đã
trở thành nhà điều hành hải cảng hàng đầu trên thế giới hiện nay.
Nhờ đầu tư vào các cảng trên khắp thế giới, Trung cộng
đã trở nên những nhà quản lý và điều hành số một thế giới trong lãnh vực này.
Các hãng hàng hải Trung cộng chuyên chở ngày càng nhiều hàng hóa hơn bất cứ nước
nào trên thế giới : 6 trong số 10 thương cảng quan trọng
nhất trên thế giới đều nằm ở Trung cộng, không kể đến Hồng Kông. Tuần
duyên Trung cộng có đội cảnh sát biển lớn nhất thế giới, lực lượng hải quân
tăng mạnh hơn bất cứ nơi nào trên thế giới, và đội tàu đánh cá của họ không dưới
200.000 chiếc tung hoành trên biển khơi.
Sự vươn lên của Trung cộng như một siêu cường biển cả
không ngoài mục tiêu đối chọi lại ý muốn của Hoa Kỳ đóng vai trò thống trị trên
biển cả, yếu tố thiết yếu để duy trì hòa bình mà phương Tây thừa hưởng từ sau
Thế chiến Thứ II.
Hai mục tiêu của « mô
hình Gwadar »
Theo bài nghiên cứu, quan niệm của Trung cộng về ảnh
hưởng trên biển không khác bao nhiêu với suy nghĩ của Alfred Thayer Mahan, một
chiến lược gia Mỹ thế kỷ XIX, đã từng cho rằng : « Kiểm soát biển cả nhờ
thế thượng phong thương mại và quân sự trên biển cho phép gây ảnh hưởng rất lớn
trên thế giới, không có gì hơn biển trong việc tạo điều kiện trên những trao đổi
cần thiết, cho dù sự phồn thịnh của một lãnh thổ có như thế nào đi chăng nữa ».
Đối với Trung cộng, « mô hình Gwadar »
là bắt đầu bằng việc thâu tóm một căn cứ thương mại chiến lược nhờ kinh nghiệm
thương mại và sức mạnh tài chính, để rồi sau đó chuyển sang mục tiêu quân sự.
Mô hình này đã được sản sinh ở nhiều nơi trọng yếu khác.
Chẳng hạn như ở Sri Lanka, Hy Lạp hay Djibouti tại
vùng Sừng Phi Châu, đầu tư của Trung cộng đổ vào các cảng dân sự, nhưng tiếp
theo đó lại có những bước triển khai hay viếng cảng của tàu Hải Quân Trung cộng
và cứ đều đặn như thế, đôi khi lại có thông báo về những đề án quân sự khẩn cấp.
Financial Times cũng trích chuyên gia Abhijit Singh, thuộc viện nghiên cứu
Observer Research Foundation tại New Delhi nhận định : « Những cơ sở mà Trung cộng thiết lập ở các cảng nước ngoài về
căn bản nhằm hai mục tiêu : Ngoài bề mặt là các chức năng thương mại, thì chúng
có thể nhanh chóng được cải thiện để phục vụ các nhiệm vụ căn bản về quân sự ».
Theo chuyên gia này : « Trung cộng rất giỏi trong việc âm thầm triển khai “quyền
lực cứng” của họ ! »
Dữ liệu nghiên cứu của Financial Times đã cho thấy
quy mô to lớn của sự thống trị của Trung cộng trên hầu hết các lãnh vực liên
quan đến biển.
Trung cộng đã thống trị thế
giới trên mặt vận chuyển container
Trong lãnh vực vận tải biển, các công ty Trung cộng
đã vận chuyển một lượng container lớn hơn bất kỳ nước nào khác Trong năm 2015,
năm hãng vận tải lớn nhất Trung cộng một mình kiểm soát 18% tổng số hàng chuyển
vận bằng container mà 20 công ty vận chuyển lớn nhất toàn cầu chia nhau. Trung
cộng như vậy đã vượt qua Đan Mạch, quê hương của Maersk Line, hãng tàu chở
container lớn nhất trên thế giới.
Về cảng container, thì Trung cộng đã trở
thành nước ấn định các luật lệ. Theo khảo sát của
Financial Times, trong năm 2015, trong số 50 cảng container lớn nhất trên thế
giới, gần hai phần ba đã nhận đầu tư của Trung cộng, so với vỏn vẹn một phần
năm trong năm 2010.
Theo cơ quan Lloyd’s List Intelligence, chuyên cung
cấp thông tin về thương mại hàng hải, các cảng đó đã xử lý 67% lượng container
toàn cầu, tăng 42% so với năm 2010.
Đầu tư của Trung cộng vào
ít nhất 50 vị trí chiến lược khắp nơi
Trung cộng không chỉ đầu tư vào các cảng
lớn nhất thế giới. Hàng chục cảng khác nhỏ hơn, trong đó có một số giữ một vị
trí chiến lược cũng thu hút đầu tư Trung cộng.
Đó là trường hợp của Djibouti, Hambantota ở Sri
Lanka, Darwin tại Úc, đảo Maday ở Miến Điện, và các dự án đang nghiên cứu liên
quan đến quần đảo São Tomé và Principe ở Đại Tây Dương, hoặc Walvis Bay ở
Namibia.
Theo một nghiên cứu của Sam Beatson và Jim Coke, Viện
Đại Học Hoàng Gia Luân Đôn, phối hợp với Financial Times, từ năm 2010, các công
ty Trung cộng và Hồng Kông đã ký thoả thuận hoặc loan báo việc ký kết hợp đồng
trên ít nhất là 40 dự án cảng, trị giá tổng cộng khoảng 45,6 tỷ đô la. Ngoài ra
còn có một chục thỏa thuận khác, trong đó có đảo Carey tại Malaysia và Chongjin
ở Bắc Triều Tiên, nhưng không có chi tiết tài chính.
Để hoàn thành bức tranh về sự thống trị của đội tàu
thương mại Trung cộng, phải tính đến đội tàu cá hiện đông đảo nhất trên thế giới,
theo một bài viết gần đây của Michael
McDevitt, một cựu phó đô đốc Hải Quân Mỹ, hiện nghiên cứu tại trung tâm
nghiên cứu chiến lược CNA của Mỹ.
Theo chuyên gia McDevitt : « Sức mạnh trên biển của Trung cộng bao gồm nhiều thứ hơn là sức mạnh hải
quân đơn thuần. Sức mạnh này bao gồm một lực lượng tuần duyên
quan trọng và hữu hiệu, một đội thương thuyền và một hạm đội tàu cá có đẳng cấp
thế giới, một ngành đóng tàu được công nhận trên toàn cầu và cuối cùng là năng
lực thu hoạch hoặc khai thác các nguồn tài nguyên biển có lợi ích kinh tế to lớn,
đặc biệt là cá ».
Chiến lược chuyển từ phòng
thủ trên bờ qua tung hoành trên biển
Theo nhận xét của Financial Times, từ hàng nghìn năm
qua, các hoàng đế Trung cộng đã đặc biệt tập trung vào việc bảo vệ Trung cộng
trên đất liền... Nhưng vào năm 2015, một quyển Sách Trắng về chiến lược quân sự
đã xác định một bước ngoặt, cho thấy các chuyển biến trong mục tiêu trên biển.
Các tác giả của tài liệu chính thức cho rằng kể từ
nay, « cần phải dành ưu tiên cao nhất cho việc quản lý của các vùng biển
và đại dương, và bảo vệ các quyền và lợi ích hàng hải ». Nhiệm vụ của
Hải Quân Trung cộng do đó phải là bảo vệ « sự an toàn của các tuyến
giao thông trên biển và lợi ích của Trung cộng mình ở hải ngoại ».
Một số nhà phân tích khẳng định rằng chiến lược hải quân của Trung cộng có mục tiêu chủ yếu là
ngăn không cho Hải Quân Mỹ tiếp cận một chuỗi đảo trải dài từ bán đảo Kamchatka
ở Nga xuống bán đảo Mã Lai ở phía nam, một rào cản tự nhiên trên biển được
mệnh danh là « chuỗi đảo thứ nhất », ranh giới xác định vùng ảnh
hưởng chiến lược của Trung cộng ở bên trong.
RFI