Bài:
Trần Mộng Tú
Hình: Trùng Dương
Hình: Trùng Dương
Mắt
Nào Không Lệ Chảy.
Chiều hôm ngày 30 tháng 3, chúng tôi, 56 người, gặp nhau ở một phi trường nhỏ trong một tỉnh nhỏ, có tên là Hatyai, của nước Thái Lan. Trong 56 người, chỉ có 4 người: vợ chồng tôi, Trùng Dương, anh Michael ở Texas làm cho đài Truyền Hình Saigon-Houston không phải thuyền nhân. Số đông thuyền nhân tham gia là các anh chị đến từ Úc Châu và rất nhiều người đã từng đi Songkla và Bidong hai, ba lần. Anh chị Dương Phục và Vũ Thanh Thủy cũng là thuyền nhân nhưng đây là chuyến đi đầu tiên của anh chị đến đảo Kra. Cô Ngọc Ân, phóng viên của đài Little Saigon-Radio, Kim Hoàng và Chấn Hồng của đài VietFace TV từ Úc cũng có mặt trong chuyến đi này.
Chúng tôi may mắn có ba Linh Mục , Cha Nguyễn Hùng đến
từ Đài Loan, cha Phạm Hồng từ Úc và Phạm Tâm (cũng còn là Bác Sĩ Y Khoa) đến từ
Houston, Hòa Thượng Thích Huyền Việt đến từ Houston, Thầy Tây Tạng Geshe Gawa đến
từ Úc.
Trong nhóm còn một Bác Sĩ trẻ nữa là Kenneth Nguyễn
đến từ California.
Trại Tỵ Nạn Songkla
Chuyến hành hương đầu tiên của chúng tôi, bắt đầu trở
lại thăm nền trại tỵ nạn Songkla. Từ thành phố ra tới địa điểm đó khoảng một tiếng
lái xe.
Xe đi ra ngoại ô qua những vùng trồng mía, xoài và rất
nhiều cánh rừng trồng cây cọ (Palm) dùng cho việc thủ công nghệ. Nhà cửa giống
hệt những vùng quê Việt Nam thời chưa đổi mới. Cũng nhà tôn, nhà lá, thỉnh thoảng
chen vào một ngôi nhà ngói, bên cạnh bụi chuối, cây hoa sứ. Cũng những con chó
trước cửa sủa bâng quơ, những con gà trống nghiêng đầu ngơ ngác, thằng bé ở trần
vừa chạy vừa ngã. Chiếc xe như mang chúng tôi trở về quê xưa ngày cũ.
Chiếc xe ca chở hơn 50 người đậu lại, biển xanh trước
mặt, nắng gắt trên đầu. Mắt mở to, mọi người xôn xao chỉ tay về phía bên phải.
Cứ đi vào đây, hướng này đúng rồi. Sẽ thấy cái giếng.
Cái giếng mấy năm trước tôi trở lại còn thấy, bây giờ
đã bị biển xâm thực rồi. Biển đã mang thêm cát vào, đã chôn mất miệng giếng,
nhưng còn cây đa. Chính nơi này là trại tạm cư cho thuyền nhân chờ được định cư
ở đệ tam quốc gia. (mặc dù cây đó trông giống một cây thùy dương hơn là cây đa.
Có thể họ muốn gọi như thế để có một chút hơi hướm quê nhà) .
Vùng bờ biển, nền lều trại dựng ngày trước đã được dọn
sạch không còn vết tích, một con đường trải nhựa, chạy song song với biển đã
như có sẵn tự bao giờ. Chúng tôi tới gốc cây đa đó, vẫn thấy dấu thờ cúng chưa
cũ lắm, có bát cơm đổ nghiêng ngả, hạt cơm vừa khô, có nhang đèn vứt lăn lóc,
những bức tượng đổ vỡ, những đồ thờ cúng kiểu Thái cái gẫy, cái bể.
Tác
giả và Miếu Thờ ở Songkhla.
Ba linh mục và nhà sư kêu gọi mọi người tụ họp lại cùng thay nhau đọc kinh, tụng niệm.
Nhang được thắp lên, nước mắt thi nhau ràn rụa. Tên
Chúa, tên Phật được thốt trên môi mọi người, để cầu cho người chết , kẻ lưu
vong. Sau phần tụng niệm, cha Hồng bắt đầu giọng cho mọi người hát theo.
Giữa buổi trưa nắng chang chang, không một ngọn gió,
tiếng hát của hơn năm mươi người hát vang vang như muốn át tiếng sóng biển đang
đập vào bờ:
Tự Do ơi Tự Do, tôi trả bằng nước mắt
Tự Do hỡi Tự Do, anh trao bằng máu xương
Tự Do ơi Tự Do, em trả bằng thân xác
Vì hai chữ Tự Do, ta mang đời lưu vong
(Nam Lộc)
Mọi người xúm lại
chụp hình. Các anh, chị làm phát thanh, truyền hình bắt đầu công việc của mình.
Có người đi tách ra riêng một chỗ thì thầm với biển, với dĩ vãng, với kỷ niệm.
Bao nhiêu người
đã được định cư ở nơi êm ấm? Bao nhiêu xác đã trôi giạt
vào bãi bờ này?
Nước mắt, nước biển, trôi đi hai hàng oan
nghiệt
Tóc bạc, tóc xanh, chìm sâu một khối tủi hờn.
Tôi cúi xuống vốc
lên một nắm cát, nhặt một chiếc vỏ ốc đã vỡ, quay lưng lại với biển, chân thấp
chân cao, vừa đi vừa lau nước mắt.
Nơi đây cũng đã
dánh dấu bao cuộc tình tỵ nạn. Gặp nhau như rong rêu giạt vào bờ, bám lấy nhau
rồi lại phải buông nhau ra vì mỗi người phải đi định cư ở hai nơi khác nhau,
hay người đi người vẫn ở lại ngóng trông. Tương lai là một trang giấy trắng chờ
tay ai vẽ xuống.
Chúng tôi rời
bãi này để tới một bờ khác.
Tha Sala và 11 Cô Gái Việt
Trưởng nhóm, anh
Hùng Lê cất tiếng:
Bây giờ Hùng đưa các cô chú đến thăm đền thờ Mười Một
Cô.
Đó là chuyện 11
cô gái Việt, không một mảnh áo quần, bị trói cổ vào nhau, thả nổi trên biển.
Xác các cô trôi tới bãi Tha Sala này, được người địa phương thương tình vớt vào
chôn cất. Ai nghe cũng phải xót thương, rùng mình, uất hận.
Những nàng thiếu nữ như hoa đỏ
Một sớm theo nhau bước xuống thuyền
Hoa bỗng rơi ra từng cánh mỏng
Thả vào lòng biển máu oan khiên
Tha Sala không
chỉ vớt Mười Một Cô, Tha Sala còn vớt thêm bao nhiêu cái xác trôi đơn lẻ, trôi
hai ba, trôi năm bẩy, giạt vào bờ.
Người đàn bà
Thái khoảng 60 tuổi, gia đình hiện sống trên bãi đã lập một miếu thờ cho những
vong linh này. Mỗi ngày bà mang ra miếu một bát cơm trắng, một chén nước lạnh
và mấy cây nhang.
Đây là câu chuyện
của bà: Khi gia đình bà tới ở trên bãi này thì vẫn còn rất hoang vu. Họ đào đất
dựng nhà, chạm phải nguyên một chiếc thuyền chôn sâu trong cát. Họ tin là thuyền
của người vượt biển bị đắm, sóng đánh vào và cát phủ lên. Bà cũng theo người lớn
tuổi hơn ra biển mỗi lần có xác giạt vào. Khi đó tuổi của bà, khoảng tuổi các
cô con gái Việt này. Gia đình bà dựng một ngôi đền nhỏ thờ vong linh của thuyền
nhân và 11 cô gái. Chiếc thuyền cứ thế để nguyên trước cửa đền. Theo năm tháng,
biển xâm thực và bão tố, ngôi đền chỉ còn lại cái nền vỡ và cái thuyền chỉ còn
lại một mảnh ván dài, nhưng bà vẫn cơm trắng, nước lạnh và thắp nhang mỗi ngày.
Người Việt bị
người Thái giết, thì cũng chính người Thái thờ cúng những oan hồn người Việt.
Có phải đó là sự đền bù của đất trời không?
Sau Tha Sala,
chúng tôi được đưa tới một địa điểm gần bờ biển phía lên đảo Koh Kra.
Nơi dừng chân là
chùa Wat Samphreak, trong chùa còn có một ngôi trường Tiểu Học. Tối hôm đó
chúng tôi được ngủ lại trong chùa. Chúng tôi trải chiếu của nhà chùa, nằm bình
an trong chánh điện, dưới chân những tượng Phật. Tôi trăn trở vì nóng, vì muỗi
hay vì câu chuyện thương tâm của mười một cô gái bất hạnh. Nghe nói tuổi của
các cô khoảng từ 19 tới 23. Ôi cái tuổi tinh khôi, mơ mộng và tràn đầy ước vọng!
Biển gọi em hay em gọi biển
Sóng đang reo sao bỗng khóc gọi hồn.
Nước mắt tôi ứa
ra, trái tim tôi thổn thức. Tôi thương các em, thương cha mẹ các em, thương cho
dân tộc tôi quá đỗi! Chúa ở đâu? Phật ở đâu?
Lên thuyền ra đảo Koh Kra
Bốn giờ sáng
ngày mồng 1 tháng 4, từ bãi của làng chài lưới Hua Sai, thuộc Nakhar Si
Thammarat, cách đảo Koh Kra 80 cây số, chúng tôi lên thuyền ra biển đi tới đó.
Tại
bãi biển.
Trên bãi biển tiếng gọi nhau khe khẽ, tiếng chân trên cát, ánh đèn pin lóe lên, dắt tay nhau, chúng tôi leo lên những chiếc thuyền tam bản của dân đánh cá Thái Lan, thuyền không mui, chạy bằng máy đuôi tôm.
Sao
đi sớm thế?
Giờ
này biển êm, không có sóng
Chạy
bao lâu thì tới?
Khoảng
hơn 3 tiếng
Ngồi sát vào nhau, tám người một thuyền. Bắt đầu tách bờ tiến về đảo Koh Kra.
Ngồi sát vào nhau, tám người một thuyền. Bắt đầu tách bờ tiến về đảo Koh Kra.
Có tiếng nói khẽ cất lên:
Hồi
đi vượt biên, chúng em đi bằng thuyền nhỏ như thế này, gọi là taxi, đưa ra
ngoài có thuyền lớn hơn đón.
Nhưng
hồi đó phải ngậm miệng, không được nói, và rất sợ bị bắt lại, cộng thêm nỗi sợ
bão biển, sợ hải tặc và chúng em chẳng ai có áo phao mặc như thế này.
Tôi ngồi co rúm người lại, thuyền đang chạy, nước biển
bắn tung tóe lên mặt, những hạt muối mặn trên môi. Trời vẫn tối chưa nhìn tỏ mặt
nhau. Biển mênh mông, biển tối om, tôi bắt đầu hiểu mang máng thế nào là nỗi sợ
của người vượt biển. Nếu thuyền lật bây giờ, cũng khó lòng mà tìm cứu được nhau
trong bóng tối. Đây thực ra mới là vịnh chưa ra tới biển.
Trời dần sáng. Lên tới bãi san hô của đảo Koh Kra thì sáng hẳn. Bờ biển này không
có cát, chỉ toàn những mảnh san hô, nên không thể đi chân trần được. Năm 1979 đã có tới hơn 2000 thuyền nhân bị hải tặc nhốt giam
ở đây. Vợ chồng chị Vũ Thanh Thủy và anh Dương Phục cùng nhóm gần 200
người đã trốn hải tặc 21 ngày đêm ở đây. Những con thú mang hình người đã hành
hạ thuyền nhân Việt ở mức độ dã man ngoài sự tưởng tượng của một đầu óc bình
thường.
Hàng ngàn người đã bị hải tặc giam cầm trên đảo này,
con số người chết ở đây không ai biết rõ là bao nhiêu? Bao nhiêu phụ nữ đã bị
hãm hiếp, bao nhiêu người chồng, người yêu, cha mẹ, anh trai, bất lực và bất hạnh
trước thảm nạn dưới tay hải tặc. Chỉ có Trời mới biết con số chính xác này.
Những cô gái nạn nhân này chịu nhiều khổ hạnh khác
nhau. Có người bị bắt đi luôn không biết còn sống hay đã chết. Nếu sống, họ có
còn muốn tìm về gặp lại những người thân yêu nữa hay không? Hay họ tự coi như
cuộc đời cũ đã chấm hết, đã xóa tên họ. Họ đã chấp nhận sống hai đời trong một
kiếp.
Có người khi được cứu đã mang thai nhưng họ can đảm
không bỏ đi giọt máu oan khiên đó, nó là một phần xương thịt họ. Họ mang con đến
một nơi khuất lấp, xa lánh cộng đồng Việt, không gặp những người thân và tự
nuôi con. Họ là những người mẹ vượt lên trên tất cả mọi thử thách mà định mệnh
đã đặt vào họ.
Có cô gái chọn nhảy xuống biển chết thay vì bị hải tặc
hiếp, nhưng số phận không cho cô chết, cô sống kẹt trong một khe đá, cô đói,
khát, lạnh và bị cá tôm rúc rỉa hai chân cô trong 21 ngày. Khi cứu được cô ra,
người ta nhìn thấy hai ống xương chân không da thịt.
Tôi đau đớn tự hỏi: Nước mắt nào khóc rửa được những
vết thương này.
Nghe bước chân mình trên đá nhọn
nghe trăm gai sắc nhói trong tim
nghe sóng biển đập vào lồng ngực
nghe em gào khóc nỗi oan khiên.
Còn bao nhiêu
câu chuyện nữa chưa được kể ra. Những người sống sót không ai muốn nhắc lại ký ức
đau thương ấy. Họ im lặng, lãng quên đi hay thậm chí đã mất trí nhớ sau những
tai nạn khốc liệt cho cả tâm hồn và thể xác ấy.
Tác giả Dương Phục
và Vũ Thanh Thủy đã ghi lại trong hồi ký cả ngàn trang “Tình Yêu, Ngục Tù và Vượt Biển” của anh chị một phần nào những thảm cảnh trên đảo Koh Kra, những thảm cảnh mà Việt
Nam và Thái Lan ngày nay đều cố tình phủ nhận và lẩn tránh. Tinh thần
trách nhiệm và liêm sỉ của một quốc gia là chiếc hộp đen cả hai nước đều né
tránh không muốn mở ra, nhìn lại.
Mỗi người bắt
tay vào mỗi việc. Căng lều tập thể, căng lều cá nhân. Người lo dựng tượng Phật,
tượng Đức Mẹ, Thánh Giá . Chúa thì phải lắp từng mảnh vào với nhau. (Những tượng
này và vật liệu cần thiết đã được anh trưởng nhóm và một vài anh mang tới trước
mấy hôm). Người lo mắc võng cá nhân, người lo treo những chiếc đèn lồng từ thân
cây này sang thân cây kia. Sửa soạn sẵn cho một đêm hoa đăng trên đảo.
Chúng tôi xếp ra
từ trong hộp những tấm mộ bia có khắc ghi tên tuổi thuyền nhân và những tấm khắc
lời tưởng niệm (Được anh trưởng nhóm đặt mang từ Việt Nam sang), sửa soạn gắn
những bia này chung quanh một bức tường tượng trưng cho khu nghĩa trang.
Buổi trưa nắng
qua nhanh. Mỗi người được ăn trưa một tô mì gói, trước khi gạch, xi măng được
chuyền tay nhau vác lên đồi tôn giáo. Một số người xuống tắm biển, có người leo
lên thuyền trở về đất liền mua thêm vật dụng.
Công việc dựng
tượng mới làm được một phần.
Buổi chiều, mọi
người còn đang tất bật thì có hai chiếc thuyền tuần duyên từ đâu rẽ sóng tới, bốn
năm người lính Thái có vũ trang nhảy vào bờ. Cô bé Nhung thông ngôn thiện nguyện
(sống ở Thái) được gọi ra để trả lời những câu hỏi. Lính Thái bắt chúng tôi
chia ra làm hai hàng, bên nam, bên nữ. Chúng tôi vội cho người đi mời mấy vị sư
Thái (hiện tu hành trên đảo) xuống, cắt nghĩa rõ ràng là chúng tôi đến dựng tượng
và thăm mộ thân nhân. Đất Thái là đất Phật, đi đến mỗi góc đường đều có am, miếu,
thờ cúng, nên người dân Thái rất nể trọng các vị sư. Họ bắt chúng tôi cầm thông
hành của mỗi người lên ngang mặt để họ chụp hình trước khi họ xuống thuyền. Sau
khi nói chuyện với các nhà sư xong họ mới chịu xuống thuyền, rời bãi.
Khi họ đi rồi, một
nỗi hoang mang dậy lên trong lòng những cựu thuyền nhân: Họ nói, không ai có thể
biết được hải tặc có thông đồng với lính tuần duyên hay không? Nhưng chúng ta
nhờ có các sư và hiện mang thông hành ngoại quốc nên tương đối an toàn.
Buổi chiều, cơn
mưa to ập xuống, dù lều được dựng dưới những tán lá cây, nước mưa vẫn làm ướt đầm
chúng tôi. Khổ nhất là công việc dựng tượng và gắn bia cho người đã chết không
tiến hành được, cả những tấm ghi dòng tưởng niệm, cũng phải xếp vào thùng.
Nhang đèn, gạch, xi măng, phải che chắn lại. Đêm “Hoa đăng tưởng niệm” như dự
tính đã không thành.
Buổi tối vẫn còn
mưa. Trong tình cảnh, dưới lưng là những mảnh san hô lớn, nhỏ, mấp mô, rồi nước
chảy vào thành từng vũng, quần áo, dày dép ướt sũng. Nhưng các anh em cũng kéo
nhau ra lều tập thể hát dưới những giọt mưa.
Tiếng hát hòa đồng
với tiếng mưa. Trong ánh lửa nến nhỏ nhoi xoi không tỏ mặt người, họ hát cho
nhau nghe, cho hồn ma bóng quế cùng nghe.
Có hay không! Những
hồn ma bóng quế đang rủ nhau cùng về ngồi trong lều với những người đồng hương
của mình?
Đêm vẫn rào rào
đổ mưa xuống, nhóm 8 người chúng tôi, nằm giữa một tấm bạt to, gấp đôi lại, nửa
trải dưới đất, nửa căng trên đầu, buộc hai góc bạt vào hai thân cây. Frank nằm
sát ngoài cùng phía bên phải lều, rồi Tú, Trâm, Nguyệt, Trùng Dương, Thủy, Phục
và ngoài cùng là Cha Tâm bìa bên trái. Tội nghiệp Cha Tâm và Frank là hai người
nằm ngoài bìa lều, ướt như chuột từ đầu tóc, quần áo, đến giày dép.
Chắc chắn những
nhóm khác, trong những chiếc lều nhỏ kiểu cắm trại, cũng ướt không kém gì chúng
tôi. Nhưng may, sáng ra trời tạnh, phải dậy thu dọn và ra lều tập thể ngay để
làm lễ liên tôn cho các vong linh trên đảo.
Lễ
Cầu Siêu Trên Đảo Koh Kra.
Các vị chủ tế cùng mọi người cùng quay lưng ra biển, mặt hướng về phía trong đảo, nơi có những nấm mồ của hơn 100 thuyền nhân được biết và thêm bao nhiêu mồ không được biết đích xác, được chôn vùi từ những ngày tháng đó của mấy ngàn thuyền nhân bị hải tặc lùa vào đây.
Chương trình hành lễ được Cha Tâm đề nghị, bắt đầu
làm lễ với các Sư Thái đang ở đảo được mời tới cử hành đầu tiên bằng tiếng Phạn,
sau đó đến Hòa Thượng Thích Huyền Việt và phần cuối là Cha Hùng, Cha Tâm Cha
Hương chia nhau dâng lời nguyện.
Vừa xong hai phần về Phật Giáo, tiếng các Cha bên
Công Giáo chưa cất lên thì có tiếng hốt hoảng gọi vào lều.
Xin
chấm dứt và sửa soạn ra về ngay, vì có tin báo bão sẽ tới lúc 3 giờ.
Mọi người hấp tấp đứng dậy chạy ra khỏi lều để thu dọn
hành lý, riêng các Cha, Hòa Thượng và những người Công Giáo vẫn ở lại.
Cha Hùng vừa cất tiếng lên đã nghẹn ngào:
Giữa
biển khơi lồng lộng gió bốn phương
Chúng
tôi những người sống sót trong cuộc chiến tranh huynh đệ đau thương,
cùng nhau về đây chiêu hồn lưu xứ.
Xin
những đấng tối cao mở lòng đón nhận, vớt lên giữa bọt sóng lênh đênh
những oan hồn, uổng tử.
Xin
hãy mang hồn vào giấc ngủ ấm yên
Vòng
tay Đức Mẹ, vòng tay Phật Bà xin hãy là những tấm khăn mềm thấm khô
ngàn máu lệ.
Chúng
tôi cúi đầu gửi lời kinh tiếng kệ
Tiếng
chuông tiếng mõ gọi hồn về.
Giọng Cha trầm trầm, bi thương, nghẹn ngào, Cha đọc
hết bốn trang bài “Văn Tế Muộn Màng.”
Rồi các Cha thay nhau đọc tên từng người trên những
mộ bia mới làm. Sóng cứ nhô cao, bão cứ tới, mọi người vẫn bình tâm với những
dòng kinh nguyện.
Chính lúc thứ tha là khi được tha thứ
Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời
(Kinh Hòa
Bình-Thánh Francis)
Chiếc lều cuối
cùng được kéo xuống, gấp lại, gấp cả những giọt nước mưa còn đọng đêm qua. Tôi
lấy tay quẹt trên giọt nước, nếm thấy mặn như những giọt lệ.
Những chiếc thuyền
tam bản, không mui, rẽ sóng trở lại đất liền. Trời không nắng, âm u, nước biển
bắn tung từng đợt lên mặt mũi, quần áo. Trưởng nhóm Hùng khóc rưng rức nhìn hòn
đảo Koh Kra chìm dần vào những đám mây đen đang từ từ kéo tới. Anh khóc vì nhiệm
vụ chưa hoàn tất. Chúng tôi phải mỗi người nói một câu an ủi anh, nhưng thật sự
trong lòng chúng tôi cũng đang thổn thức. Mây đen kéo mỗi lúc một dầy sau lưng
chúng tôi, hòn đảo như chìm từ từ xuống biển, tiếng kêu của những vong linh
không vọng được lên trên tiếng sóng. Hòn đảo như biến mất, giữa kẻ chết và người
sống một đường vạch dài và đen chia đôi.
Bidong và Những Ngôi Mộ Tập Thể Ở Mã Lai
Xe ca đi từ Thái
Lan sang Mã Lai, mất 8 tiếng, qua những chặng đường biên giới, phải làm thủ tục
nhập cảnh. Chúng tôi tới Mã Lai thì đã trời chiều.
Phụ nữ ở đây đa
số mặc quốc phục nhiều màu sắc, khăn chùm đầu của họ rất đẹp, đủ màu, đủ kiểu
quấn khác nhau chung quanh khuôn mặt. Bạn tha hồ ngắm mắt môi và nguyên khuôn mặt
thân thiện, hay cười của họ. Hiếm hoi lắm mới thấy một vài bà đứng tuổi quấn
mình kín mít trong tấm vải đen chỉ để lộ hai con mắt đủ nhìn bước chân mình.
Đàn ông cũng thân thiện không kém, ông tài xế taxi hay nói về đời sống gia đình
cho bạn nghe, về việc họ vẫn cầu nguyện năm lần một ngày, mỗi lần bảy phút.
Mã
Lai là nước đã nhận gần 300 ngàn người tỵ nạn Việt Nam trong hai thập niên
1975-1995. Những thuyền
nhân đi trong nhóm kể lại: nạn hải tặc Mã ít hơn hải tặc Thái rất nhiều. Lính
Mã ban đêm có vào trại kiếm những cô vừa mắt mang về làm vợ, không ai can thiệp
được. Nhưng lính Mã không hiếp phụ nữ và giết người ngay trước mặt mình.
Mã
Lai cũng là nơi có nhiều xác thuyền nhân tạt vào bờ nhất nên cũng là nơi duy nhất
có nhiều mộ tập thể. Những người
bạn thuyền nhân trong nhóm nói có khi thuyền gần vào tới bờ vẫn bị lật như thường,
người đến trước trên bờ có thể nhìn thấy người chết chìm trước mặt mà không làm
gì cứu được. Về sau được người địa phương cho biết là khúc biển gần vào đến
bãi, dọc biển đó có nhiều vũng xoáy, có khi thuyền vào trúng chỗ xoáy mà không
biết, gặp biển êm thì thoát, khi biển lúc đó động thì chỗ xoáy hút thuyền vào,
thuyền lật, không cách nào cứu được. Đó là trường hợp của rất nhiều chiếc thuyền
đã nhìn thấy bờ mà không vào được bến.
Viếng
Ngôi Mộ Tập Thể Đầu Tiên Ở Kelantan.
Mã cũng là quốc gia duy nhất có nhiều mộ tập thể của thuyền nhân, có đầy đủ lý lịch, vì họ chết gần bờ.
Ngôi mộ tập thể số 1 chúng tôi tới ở Balai Bachock
thuộc tỉnh Terengganu, mộ đó có 46 người, trong đó có 3 em nhỏ.
Lần đầu tiên trong đời người, đứng trước một ngôi mộ
tập thể. Ngôi mộ chơ vơ trên đồng đất nước người với những cái tên Việt Nam,
tôi không cầm nổi lòng mình, nghe nôn nao, quặn đau trong ruột, nước mắt ràn rụa.
Từ bao lâu nay chỉ nghe tiếng “Thuyền Nhân” chỉ nhìn “HìnhThuyền Nhân”, cái
thương cảm đó có đấy, nhưng chỉ thoáng ngậm ngùi như vết xước ngoài da.
Phải tới
đó, trên một đất nước xa lạ nhìn thấy nấm mộ đó mới hiểu được tình người trong
một nước nó sâu đậm đến đâu, mới hiểu rõ hai chữ “Đồng Bào” cùng một cội nguồn
dân tộc với nhau. Mình bỗng chốc thấy thương dân, thương nước mình quá đỗi! Vì
đâu, vì ai , vì nghiệp lực nào mà chết thảm, chết khổ, đến thế này! Cá nhân
mình có lãnh một phần trách nhiệm nào trong đó không?
Nhang, nến, thắp lên, lời kinh hòa đồng, Phật, Chúa
có nhìn xuống chúng sinh không?
Tôi nghĩ tới lời Sư Huyền Việt nói với tôi: Nghiệp lực
làm khổ nhau. Cái khổ phải xảy ra một lần trong cuộc đời và cái khổ vẫn tiếp tục
xảy ra.
Ngôi mộ thứ hai tại Cherang Ruku, cách nơi này không
xa còn to hơn nữa, còn nhiều người hơn nữa, nó cho ta cái cảm tưởng đây là một
cái nghĩa trang nhỏ chứ không phải là một nấm mồ. Mộ chôn 123 người, sau nhận
thêm 5 người nữa chôn ở nơi khác được đưa về. Tổng cộng là 128 người. Những
ngôi mộ tập thể đã được chôn chung như thế nào? Đây là lời kể của bà vợ ông
Alcoh Wong Yahao (Sẽ nói đến vị ân nhân này sau)
“Chúng tôi xếp
xác từng lớp, không phân biệt nam nữ, tuổi tác. Cứ một lớp xác người xếp lên một
lớp khăn liệm, rồi lại tiếp một lớp xác người khác, trên cùng chúng tôi đặt một
lớp ván ép, rồi xúc đất đổ lên. Thế là thành một ngôi mộ lớn.
Ngôi mộ thứ hai này và ngôi mộ thứ nhất với 46 người,
cộng thêm 5 người mang tới sau, họ cùng đi với nhau trên chiếc tàu khởi hành từ
Mỹ Tho, tên tàu là MT- 065, khỏi hành ngày 1 tháng 12, tới gần biển Mã Lai ngày
4 tháng 12 thì bị lật chìm. Tổng số người đi trên thuyền là 300 người.
Mộ
Tổng Cộng 128 Người.
Chúng tôi cúi đầu khấn nguyện Chúa, Phật, cầu xin các vong linh về chứng giám cho lòng thành của chúng tôi. Chúng tôi, những phụ nữ dựa vào vai nhau mà đẫm lệ.
Sau đó cha Tâm đề nghị mỗi người cầm nhang đi chung
quanh ngôi mộ cắm xuống. Mỗi nén nhang có mang theo những giọt nước mắt.
Hỡi hồn bập bềnh trên biển
Về đây nghe lời kinh an
Trăm ngàn mảnh hồn ướt sũng
Muối nào
trong lệ không tan.
Đừng khóc vội, tôi xin kể một câu chuyện liên quan đến
nấm mộ to như một nghĩa trang nhỏ này.
Trong mấy ngày hôm sau khi chúng tôi đi thăm những
nghĩa trang có chôn rải rác thuyền nhân, tôi thấy xuất hiện trong đoàn một
thanh niên rất trẻ, tôi hỏi chuyện làm quen, khi em giúp nắm tay tôi dắt bước
qua những mô đất. Em tên là Alex Trần, 28 tuổi, em đi thăm mộ ông bà ngoại và
các chú, bác, của mẹ em. Vì thời khóa biểu không trùng hợp với nhóm nên em đến
chậm một đôi ngày, em phải đi thăm ông bà ngoại một mình.
Tại
sao mẹ không đi với con?
Mẹ
sợ , mẹ không dám nhìn lại.
Em nói tiếng Việt rất giỏi, rất lễ phép, chứng tỏ em
được lớn lên trong một gia đình tốt. Em kể:
Gia đình của mẹ con, tất cả 18 người đi trên chiếc
tàu MT-065 này. Lúc đó mẹ con là một cô bé 12 tuổi, dì của con lên 10. Khi tàu
lật, họ kẹt trong khoang, dì con 10 tuổi dùng đầu đập vào cửa kính thuyền, hai
chị em chui được ra bên ngoài. Cả hai chị em cùng không biết bơi, ngất xỉu.
Sóng đánh họ giạt vào bờ, được cứu sống. Cả gia đình chết 13 người, còn lại 5
người trong đó có mẹ con, dì con và ba người họ hàng.
Em thơ dại
sao mà em may mắn
Cả một thuyền
chết hết chỉ còn em
Sau đó hai chị
em được một gia đình Mỹ bảo trợ, nuôi ăn học, cho tới lúc lập gia đình. May mắn
gia đình đó ở Orange County, California ngay trung tâm của người Việt nên hai
cô bé đó đã vẫn giữ và nói tiếng Việt. (Khi làm mẹ, cô cũng cho con đi học tiếng
Việt).
Hai chị em cô bé
này quả thật trong bất hạnh có lồng may mắn. Hai cô được cha mẹ Mỹ cho đi học
tiếng Việt và lớn lên với cộng đồng Việt.
Nhìn cậu thanh
niên khôi ngô, đĩnh ngộ, lớn lên ở Mỹ, nói tiếng Việt rõ ràng, lễ phép trong một
gia đình có hoàn cảnh như thế, tôi thấy mình không khóc được nữa. Tôi đứng sững
nhìn cậu, nghe cậu kể lại câu chuyện nhiều lần (vì nhiều người hỏi). Tôi hình
dung ra mẹ và dì của cậu như những viên ngọc lăn rơi xuống từ những mỏn đá cao
và sắc mà không hề xây xát. Không có viên ngọc nào có thể đẹp hơn nữa.
Tôi nghĩ đến đôi
ngày vừa qua, khi cậu một mình đứng trước ngôi mộ tập thể, cậu chạm tay mình
lên trên tên ông bà ngoại, tôi biết chắc cậu đã khóc bằng đôi mắt của mẹ mình.
Một
Mộ Bia Tập Thể Của Người Việt Trên Đất Mã Lai.
Người Chủ của Những Ngôi Mộ Thuyền Nhân
Người Chủ của Những Ngôi Mộ Thuyền Nhân
Một khu nghĩa trang của người Hoa cũng ở Terengganu với những ngôi mộ xây theo hình vòng cung như cái bào thai của người mẹ (Người Hoa nói đó là tượng trưng cho ta trở về nơi ta đã từ đó ra đi) Trong nghĩa trang này có 4 khu A, B,C,D. Khu A có hơn 400 thuyền nhân được chôn ở đây. Khu B,C,D có hơn 200. Mộ chôn rải rác, khi thì một người, khi thì ba hay bốn người, tùy theo có bao nhiêu giạt vào bờ lúc đó. Có mộ thấy lên tới bảy người, mười người.
Hỏi anh Lưu Dân, một thuyền nhân ở Úc đã tổ chức tới
đây nhiều lần, có gia đình nào về lại Mã Lai cải táng thân nhân đem đi không?
Anh nói, có một người đã làm được. Nhưng người Mã ở thành phố này, không muốn
cho người Việt đến cải táng mang đi. Họ nêu ra ba lý do:
Thứ nhất, đã chết ở Mã là người Mã.
Thứ hai, mộ ở đây lâu năm đã thành mộ bạn.
Thứ ba, nếu người Việt ai cũng cải táng thì đâu còn
ai tới thành phố này (Terengganu là một thành phố cần du khách)
Cha Tâm mặc áo lễ, dâng bánh Thánh ngay trong nghĩa
trang này. Tôi và Vũ Thanh Thủy, Ngọc Hân cùng cất tiếng hát: Chúa nhân từ xin
lắng nghe linh hồn con tha thiết. Ăn năn kêu van, lạy Chúa xin dủ thương, ban
xuống niềm tin ấp ủ cho tâm hồn.
Hình
Cha Tâm Dâng Lễ.
Nắng rát da, trời cao vời vợi, những hạt nước mắt rơi trong tiếng hát, rơi nhòe trên trang giấy hát.
Hòa Thượng Huyền Việt đã rời Thái lan sau khi ở Koh
Kra về, nên anh Ngô Đức Hữu từ Úc đại diện Phật Giáo mỗi lần tới các phần mộ,
anh phụ trách khấn nguyện. Tiếng Việt miền Nam của anh nhẹ nhàng, ấm áp, bài
kinh anh rút ra từ đạo Ông Bà, nghe thật cảm động, xin trích một đoạn:
Cầu
Thượng đế từ bi hỉ xả. Cho linh hồn ổn thỏa nghe kinh. Cầu xin giảm bớt tội
tình. Cho vong nhàn hạ nhẹ mình thảnh thơi. Cảnh ly biệt hỡi ôi thê thảm. Đức
Thần Minh phất phưởng tràng phan. Cho hồn noi đó nhẹ nhàng. Trở về cứu vị an
nhàn hưởng vui…..
Sau lễ chúng tôi
đi thắp nhang trên các ngôi mộ, không phân biệt Hoa, Việt, người địa phương hay
thuyền nhân. Nghi thức hóa vàng mã tiếp theo rất phong phú, các anh chị trong
nhóm mua ngay tại địa phương nên mua được rất nhiều ( Theo thống kê năm 2010 Mã
Lai có 19.8 % theo đạo Phật).
Chúng tôi hóa
vàng xong thì xuất hiện một người đàn bà Hoa, được những người trong nhóm giới
thiệu đó là bà Alice Wong, vợ của ông Alcoh Wong một vị ân nhân chôn cất gần
như là hầu hết những xác thuyền nhân trôi vào bờ bãi Mã Lai.
Chân
Dung Ông Wong và Bia Công Đức.
Ông chính là người đã chôn cất những ngôi mộ Tập Thể, hơn thế nữa bao giờ có xác táp vào bờ là người ta đi gọi ông. Ông in ra cuốn sách The Vietnamese Boat People (VBP) along The East Coast Of Malaysia Peninsula để hướng dẫn những người đi tìm mộ thân nhân dọc theo bờ biển phía đông vùng biển Mã Lai. Vùng biển phía đông Mã Lai đối diện với mũi Cà Mau là nơi thuyền nhân tới đông nhất và cũng chết đắm nhiều nhất.
Ông để hết thời gian của mình chỉ để lo cho những cái xác của thuyền nhân Việt
Nam trôi giạt vào vùng bãi biển Mã Lai, gần nơi ông cư ngụ. Chiếc thuyền đầu
tiên của người Việt tỵ nạn ông Wong được nhìn thấy vào ngày 23 tháng 11 năm
1978 đã vào gần tới bãi nhưng chưa được lên bờ. Ông nhìn thấy những khuôn mặt hốc
hác, sợ hãi nhưng tràn đầy hy vọng. (Về sau ông được Hội Hồng Nguyệt Red
Cresent cho biết, chiếc thuyền đó đã bị lật trong khi được hướng dẫn vào bờ
ngay trong cùng ngày. Cả thuyền 137 người bị chết đuối).Ông và những người bạn của ông ngoài việc chôn cất,
còn đi tìm những phần mộ của thuyền nhân rải rác trên đất Mã đem về gần nhau.
Những nấm mộ thuyền nhân tập thể được nhìn như “Mồ
vô chủ” thì trên một ý nghĩa nào đó, ông Wong chính là “Chủ” những nấm mồ này.
Cho tới khi ông mất, năm 2006 trước đó một tuần ông
vào nghĩa trang thăm mộ thuyền nhân ông đã hát bài “I will follow you forever.”Nói theo nhà Phật, kiếp trước ông có nợ người Việt
Nam hay chính ông là một người Việt Nam trong tiền kiếp?
Tấm lòng của ông Wong đối với thuyền nhân từ năm đầu
tiên 1978, khi ông nhìn thấy chiếc thuyền tị nạn 137 người kéo vào vùng vịnh
Kuala Terengganu, tới năm ông qua đời 2006 là 28 năm dài.
Đảo Bidong và Những khu mộ
Chúng tôi cũng tới đảo Bidong bằng thuyền. Thuyền
này chạy bằng máy cao tốc và từ đất liền ra tới đảo khoảng 20 phút. Đi giữa
trưa nắng gắt.
Từ năm 1975- 1991 đã có 250,000 thuyền nhân sống sót
tạt thuyền vào sinh sống ở đây. Nhiều người chờ bảo lãnh có thể ở trên đảo từ
hai tới bốn năm, nhiều người bị trả lại. Có người bệnh chết, có người tự tử. Họ
được mang lên đỉnh đảo chôn cất.
Mộ chia ra từng
khu A, B, C… Khu cho trẻ em riêng. Khu F được coi là đông nhất tới hơn 200 ngôi
mộ. Chúng tôi kéo nhau lên đó. Bước thấp, bước cao, chống gậy, cầm dao, vừa leo
vừa phạt cây rẽ lối. Cuối cùng cũng lên tới tấm bia có ghi 151 người (có bia mộ)
Thật ra số mộ ở đây trên con số 200.
Đồi Tôn Giáo nơi
trước đây có nhà thờ Công Giáo, Tin Lành, Cao Đài và Chùa thì nay đã vừa bị
phá, vừa xụp đổ theo thời gian, trông vô cùng hoang phế. Đau lòng hơn nữa những
tượng Phật, tượng Đức Mẹ đều bị chém cụt đầu (vì một số người cuồng tín tin là
mất đầu thì không còn linh thiêng nữa) Thánh giá Chúa thì chỉ còn dấu vết trên
tường mà thôi.
Tôi và Thái hai
chị em đi lang thang chung quanh đồi, Thái lo chụp hình, tôi lo… buồn. Tôi đứng
trên cao nhìn mông lung bao quát bãi cát dưới chân đồi.
Nơi đây bao
nhiêu người dân Việt của tôi giạt vào, giạt vào bằng thân xác còn thở được, còn
hy vọng sẽ được chuyển tới một quốc gia nào đó để gây dựng lại cuộc đời cho
con,cháu hay chính bản thân mình? Bao nhiêu người chỉ còn là những cái xác bập
bềnh giạt vào bờ? Bao nhiêu cảnh chia ly của những mối tình vừa nhận được sau
những đau thương mất mát? Bao cảnh đời uất hận bị gửi trả về nơi mình đã không
sống được phải bỏ đi? Bao nhiêu người đã phải ở đây cả ba, bốn năm trong hy vọng,
trong tuyệt vọng trước khi được rời nơi này?
Biển dưới kia
đang ập vào từng đợc sóng, nước mắt của mấy mươi năm về trước còn giọt nào pha
trong muối đại dương?
Biển phải làm gì
để giữ mãi được những giọt lệ, những tiếng khóc, tiếng cười, hy vọng và tuyệt vọng
của một dân tộc luôn luôn “Đi không yên ổn, ngồi không vững vàng” ngay trên
chính đất nước mình.
Chúng tôi xuống
đồi để sửa soạn quay về đất liền. Xuống đến chân đồi ngoái đầu nhìn lại, một
cánh bướm đen thật lớn từ trên đồi bay xuống lượn vòng ngay sau lưng tôi. Một
thoáng rùng mình, một thoáng rưng rưng, tôi dừng lại, nói thầm trong cuống họng
mình. “Thôi nhé, tôi về, nhớ mãi hôm nay.” Giơ tay áo lên, quẹt ngang dòng nước
mắt. Cánh bướm bay mất hút lên đồi.
Sau một đêm mắc
võng, chùm chăn (cho khỏi muỗi) ngủ lăn lóc trên cầu tàu, chúng tôi trở về đất
liền, tiếp tục cuộc hành trình tìm mộ thuyền nhân.
Rải Rác Mộ Thuyền Nhân Dọc Đường
Trên đường sang
Kuala Lumpur, trong tỉnh Dungun có hai nghĩa trang. Hai nghĩa trang này có biển
trước mặt nên khi xác thuyền nhân giạt vào được vớt lên chôn ngay tại đây. Khi
họ vớt được 1 xác, khi được 2,3, khi được 5,7. Có khi cả trên 10 xác vào một
lúc.
Nghĩa trang thứ
nhất lối vào có đền thờ với hàng chữ Tao Yan Dian Temple, có 80 ngôi mộ thuyền
nhân, trong đó 38 mộ có tên. Một ngôi mộ tập thể nằm dưới gốc một cây bàng lớn,
chôn trên 100 người, được khắc chung một tấm bia. Bia được Văn Khố Thuyền Nhân
xây ngày 23 tháng 3 năm 2007.
Những ngôi mộ
trong khu thứ hai được đặt trong một nghĩa trang đặc biệt do nhà thờ Công Giáo
St.Thomas trông coi. Những thân xác thuyền nhân được bao quanh bởi ba ngôi
thánh đường của: Thiên Chúa Giáo, Phật Giáo và Hồi Giáo. Còn được gọi là
Migrants Cemetery.
Những linh hồn
này thật được chúc phúc an ủi biết bao!
Nhang được thắp
lên, lời kinh được cất lên, nước mắt lại chảy xuống, Chúa, Phật trên cao được mời
xuống dự tiệc bi ai của nhân loại.
Viết tới đây.
Tôi tưởng tượng ra, tôi là người dân Mã Lai sống dọc theo miền đông biển Mã
Lai, mỗi sáng trở dậy nghe tiếng gọi nhau ơi ới bên ngoài cánh cửa: Ra vớt xác
thuyền nhân Việt đang giạt vào bờ. Không phải một xác, hai xác, mà vô số xác. Rồi
cùng nhau tẩm liệm, chôn cất, có khi lập miếu thờ.
Tôi tưởng tượng
ra trong những cái xác bất hạnh đó, một cái xác của chính mình.
Những cái xác của
đồng bào mình (hay của chính mình) đã được những người không cùng chủng tộc xót
thương, được ghi lại in thành sách (như sách của ông Wong) để sau chính những
người Việt về tìm lại.
Chôn cất cả
trăm, ngàn, nấm mộ không phải là chuyện giản dị. Việc xây cất làm sao chu đáo
được. Theo thời gian, mưa nắng những ngôi mộ không tồn tại được.
May mắn thay Văn
Khố Thuyền Nhân của người Việt (Do ông Trần Đông, từ Úc-Sáng lập
2004), đã tới Mã Lai, Thái Lan, Nam Dương trùng tu lại hầu hết những nấm mộ
này. (Theo VKTN-Trong vùng Đông Nam Á có hơn 2000 nấm mộ vừa tập thể vừa cá
nhân).
Tôi Đọc Tên Tôi
Hội Hồng Nguyệt
( Malaysian Red Cresent Societ - Hồng Thập Tự Mã Lai) đã lưu trữ hai trăm ngàn
(200,000) hồ sơ của những người sống sót. Để hôm nay những thuyền nhân trong
nhóm chúng tôi đến tìm lại. Mỗi khi tìm được tên của mình hay thân nhân mình, họ
òa vỡ ra cùng một lúc tiếng cười và giọt lệ:
Tôi vừa đọc tên tôi trên tấm thẻ
Có phải tôi không trên lý lịch này
Ngày tháng đó tưởng vùi chôn đáy biển
Bỗng sóng đánh vào bờ sáng hôm nay
Khi chúng tôi tới
viếng Hội, câu chào hỏi đầu tiên của ông Dato’ Sayed A. Rahman,Tổng Thư Ký hội
Hồng Nguyệt là: “Chúng tôi không cần biết
anh là người nước nào, chúng tôi chỉ biết giúp đỡ một con người.” Nghe
mà ứa nước mắt.
Ông Misnan, nhân viên điều hành của Hội, nói được
vài câu bằng tiếng Việt rất thân tình. Đặc biệt là ông hát cho chúng tôi nghe bằng
tiếng Việt, bài hát “Bài Tình Ca Cho Em” của Vũ Thành An thật hay. Hay một cách
bất ngờ!
Thế gian đầy quỷ dữ, nhưng Trời cũng ban phát xuống
những thiên thần cứu trợ.
Sau 42 năm nhìn lại, chúng ta có rất nhiều những
trang Sử mới. Trên hết, mỗi một cái chết của thuyền nhân, của tù cải tạo, của
người Quốc Gia chết cho Tự Do là một trang Sử mới được cộng vào.
Tất cả con dân Việt đều phải học Sử Việt.
Trần mộng Tú (VOA Tiếng Việt)
Ngày 20 tháng 4 năm 2017
Viết trong cuộc hành trình về Trại Tỵ Nạn
Songkhla, đảo Koh Kra và Trại Tỵ Nạn Bidong từ 30 tháng 3 tới 16 tháng 4-2017
(*) Những câu Thơ trong bài của tác giả
Trần Mộng Tú