tuankhanh
Tác giả hai bài thơ đã cùng âm nhạc của Phạm Duy trở thành bất hủ trong lòng người Việt, nữ thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh, đã ra đi vào ngày 9/6/2017 tại miền Nam California. Một cái tên lớn của văn hoá Việt Nam đã hoá mây về trời trong những ngày ở quê nhà đầy mưa và mây xám.
Kiếp nào có yêu nhau và Đừng
bỏ em một mình, là đôi tác phẩm trong hàng loạt các sáng tác của bà như
truyện ngắn, truyện dài, thi tập... mà danh mục có đến 17 ấn bản, từ năm 1960 đến
1990.
Tài liệu về bà, chủ yếu được trích từ sách "Văn
nghiệp & cuộc đời Minh Đức Hoài Trinh" do phu quân của bà là Nguyễn
Huy Quang chép lại (sách đề tác giả là Nguyễn Quang). Hiện sách gần như tuyệt bản.
Trong đó nói rõ tiểu sử của bà như sau:
"Minh Đức Hoài Trinh tên thật là Võ
Thị Hoài Trinh, bà thường lấy các bút hiệu là Hoàng Trúc, Nguyễn Vinh, Bằng Cử.
Bà sinh ngày 15 tháng 10 năm 1930 tại Huế, sống ở Pháp từ năm 1953 đến 1964.
Sau đó bà đến định cư tại quận Cam, Hoa Kỳ từ năm 1982. Tên tuổi của Minh Đức
Hoài Trinh không ai trong giới văn học không biết. Bà sinh tại Huế, con quan Tổng
Đốc Võ Chuẩn, Ông Nội bà là Võ Liêm, Thượng Thư Bộ Lễ của triều đình. Năm 1945
Bà tham gia phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp, sau đó Bà biết sự lợi dụng
của phong trào nên bà bỏ về Huế tiếp tục học.
Năm 1964 bà đi du học tại Pháp về ngành
báo chí và Hán văn tại trường ngôn ngữ Đông Phương La Sorbonne, Paris đến năm
1967 bà ra trường và làm phóng viên cho đài truyền hình Pháp ORTF, lúc đó bà đi
làm phóng sự nhiều nơi sôi động nhất như: Algerie và chiến trường Việt Nam. . .
Năm 1972 bà được cử theo dõi và tường thuật cuộc hòa đàm Paris. 1973 Bà sang
Trung Đông theo dõi cuộc chiến Do Thái, một thời gian sau bà trở về Việt Nam giảng
dạy khoa báo chí tại Viện Đại Học Vạn Hạnh năm 1974-1975.
Sau biến cố 1975 bà trở lại Paris cho xuất
bản tạp chí “Hồn Việt Nam” và trở lại cộng tác với đài phát thanh ORTF với
chương trình Việt ngữ để tranh đấu cho những nhà cầm bút, những văn nghệ sĩ Việt
Nam bị cộng sản cầm tù. Bà đứng ra thành lập Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại và
vận động để được công nhân hội viên Hội Văn Bút Quốc Tế tại Rio de Janeiro, Ba
Tây vào năm 1979"...
Về câu chuyện văn bút quốc tế, có rất nhiều chi tiết
đáng ngưỡng mộ tâm sức của bà.
Sau năm 1975, rất nhiều hội đoàn chính danh liên kết
với quốc tế của miền Nam Việt Nam như Hướng đạo sinh, Ngân hàng, báo chí... đều
bị đứt đoạn. Hội nhóm văn chương tự do của miền Nam sau thời điểm đó đều tan
tác, mỗi người một hướng.
Theo quy định của Văn bút Quốc tế, muốn tái lập, thì
tổ chức nhân danh quốc gia đó phải có ít nhất là 20 thành viên. Từ một nền văn
hoá có đến hàng ngàn danh sĩ của miền Nam, việc liên lạc và tập hợp 20 người
vào năm 1977 đến 1979 đã trở nên khó khăn vô cùng, nhất là khi cuộc sống của
người Việt di tản còn vất vả và ly tán.
Năm 1978, nữ thi sĩ và là nhà báo Minh Đức Hoài
Trinh một mình tham dự Đại Hội Văn Bút Quốc Tế kỳ 43 tổ chức ở Stockholm, Thụy
Điển, và đơn độc một tiếng nói Việt Nam ở đó, bà vận động các nhà văn và các
bút nhóm quốc tế quen biết ủng hộ cho việc thành lập Trung Tâm Văn Bút Việt Nam
Hải Ngoại (Vietnamese Abroad Pen Centre) chính danh là thành viên của Pen
International, với lý do nối kết lại hoạt động của giới trí thức tự do Việt Nam
sau chiến tranh. Đây là việc mà ai cũng thấy là vô hy vọng vì sự chống đối mạnh
mẽ của phe thân cộng, lúc đó đang nổi lên trong Pen International. Nhưng kết quả
bỏ phiếu thì thật bất ngờ: 23 phiếu thuận – 23 phiếu chống. Rất nhiều nhà văn
trong hội đồng đã cảm động trước tâm nguyện của bà nên đã bỏ phiếu đồng ý. Tiếc
là kết quả không như ý.
Năm 1979, tại Đại Hội Đồng Văn Bút Quốc Tế kỳ 44 ở
Rio de Janeiro, Brazil, cuộc vận động của nữ thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh thành
công. Và Văn Bút Việt Nam Hải ngoại tồn tại đến ngày hôm nay, vẫn chính danh là
nhánh văn bút quốc tế thuộc Pen International.
Mục đích và tâm lực của nữ thi sĩ Minh Đức Hoài
Trinh là muốn xây dựng một tiếng nói truyền thông có tầm quốc tế cho giới trí
thức người Việt đang phải ly tán, nhất là vào lúc khi muốn cất tiếng thì lại
quá lạc loài. Tầm nhìn của một phụ nữ như bà, vào thời gian ấy, quả thật đáng
ngưỡng mộ.
Từ năm 1982, Minh Đức Hoài Trinh định cư ở Hoa Kỳ,
sau đó ở gần nơi cư trú của nhạc sĩ Phạm Duy. Nơi Midway City, mà ông thường diễn
dịch một cách thơ mộng là Thị trấn giữa đàng.
Nói về cơ duyên của sự kết hợp thi ca và âm nhạc của
Kiếp nào có yêu nhau và Đừng bỏ em một mình, nhạc sĩ Phạm Duy có ghi lại trong
hồi ký Vang vọng một thời: “Tôi bấy giờ đang là quân nhân... bỗng gặp lại
Minh Đức Hoài Trinh lúc đó được mười bảy tuổi từ thành phố Huế thơ mộng chạy ra
với kháng chiến. Nàng còn đem theo đôi gót chân đỏ như son và đôi mắt sáng như
đèn pha ô tô. Từ tướng Tư lệnh Nguyễn Sơn cho tới các văn nghệ sĩ, già hay trẻ,
độc thân hay đã có vợ con... ai cũng đều mê mẩn cô bé này. Phạm Ngọc Thạch từ
Trung ương đi bộ xuống vùng trung du để vào Nam bộ, khi ghé qua Thanh Hóa, cũng
phải tới Trường Văn hóa để xem mặt Hoài Trinh. Hồi đó, Minh Đức Hoài Trinh đã
được Đặng Thái Mai coi như là con nuôi và hết lòng nâng đỡ.
Năm 1954, tôi gặp Minh Đức Hoài Trinh lần
thứ ba khi tôi tới Paris ở khoảng hai năm. Nàng đã rời Việt Nam, đang sống với
một người em trai trong một căn phòng nhỏ hẹp. Ba lần gặp nhau là rất hy hữu,
tôi bèn giao lưu với nàng và soạn được hai bài ca bất hủ”...
Là người sống cùng thời đại với nữ văn sĩ Pháp
Francoise Sagan, và cũng là người theo Tây học nhưng tư tưởng bàng bạc theo
thuyết cõi tạm của Phật giáo, ngôn ngữ của bà luôn u uẩn nhưng ngôn từ của bà
thì dữ dội và đắm đuối đến ngộp thở, đọc lại vẫn bàng hoàng:
"Đừng bỏ em một mình
Trời đất đang làm kinh
Rừng xa quằn quại gió
Thu buốt vết hồ tinh"
Hay
"Kiếp nào có yêu nhau
Nhớ tìm khi chưa nở
Hoa xanh tận nghìn sau
Tình xanh không lo sợ
Hoặc trong bài "Tình chúng mình sẽ được vẽ lên
tranh" có đoạn:
"Anh còn sống là mình còn xa cách
Vì cuộc đời hay ghét kẻ yêu nhau
Vì hạnh phúc phải xây trên nhiều thử thách
Xã hội điên cuồng, nhân loại ngợp thương đau"
Tạm biệt bà, một danh nhân của nền văn hoá đầy sức sống
mãnh liệt của miền Nam Việt Nam tự do. Thêm một người nữa đã khuất, và thêm những
núi đồi hùng vĩ lại mọc lên mà hậu sinh sẽ cứ phải ngước nhìn trong trầm mặc.
Những ngọn núi nhắc rằng đỉnh cao của kiếp người là để sống và mơ được yêu
thương nhau, dẫu muôn thương đau.
Phụ lục: Các
tác phẩm của Minh Đức Hoà Trinh đã xuất bản gồm có:Lang Thang (1960), Thư Sinh
(1962), Bơ Vơ (1964), Hắn (1964), Mơ (1964), Thiên Nga (1965), Hai Gốc Cây
(1966), Sám Hối (1967), Tử Địa (1973), Trà Thất (1974), Bài Thơ Cho Ai (1974),
Dòng Mưa Trích Lịch (Thanh Long Bruxelles, 1976), Bài Thơ Cho Quê Hương (Nguyễn
Quang Paris 1976), This Side The Other Side (Occidental Press USA 1980), Bên Ni
Bên Tê (truyện dài, Nguyễn Quang USA, 1985), Niệm Thư 1 (tái bản 1987), Biển
Nghiệp (Nguyễn Quang USA, 1990).