„Đã hơn bốn mươi năm trôi qua. Nhận thức chưa rẽ chiều đổi hướng rõ
rệt nhưng thước đo thẩm định giá trị nghệ thuật có phần đong đưa và co duỗi.“
Hành trình nhận thức di sản văn học miền Nam
Trần
Trọng Cát Tường
Bản
quyền hình ảnh GETTY IMAGES Image caption Sau biến cố 1975, văn học miền Nam
một thời gian dài bị phủ nhận tại Việt Nam
Một thời, văn học miền Nam 1954 - 1975 thường quy gọn vào mấy chữ
"phản động và suy đồi", "thù địch với nhân dân"... Nhưng khu vườn văn chương đó là thực thể không thể gạt khỏi di sản văn
hóa dân tộc.
Điểm danh phương châm tiếp vật xử thế với văn học miền
Nam, chúng ta thấy gì?
Thấy cương lĩnh trong nghị quyết các kỳ đại hội và hội
nghị Trung ương Đảng kết liễu sinh mệnh nền
văn nghệ "bên kia chiến tuyến".
Từ hành động quyết liệt: "(...) quét sạch ảnh hưởng tư tưởng và thực dân mới ở
miền Nam (...)" (1976) cho đến ý chí riết róng: "(...) Không vì khôi phục lại vị trí
và giá trị tác phẩm cho một số văn nghệ sĩ trước đây mà đề cao họ quá đáng
(...)" (1989).
Những năm 1990 chuyển sang chiều hướng giảm nhẹ. Lời
giới thiệu của một số sách tái bản thường nhấn mạnh: "(...) dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác và đường lối đổi mới của Đại hội
VII (...), chúng ta có thêm công cụ có ích (...)" hay trích in mệnh đề:
"(...) phát huy tự do tư tưởng tạo mọi điều kiện cần thiết cho hoạt động
nghiên cứu (...)" (Nghị quyết số 01-NQ-TW, 28.3.1992).
Xem chừng sợi dây ràng buộc không dễ gì cởi bỏ một sớm
một chiều.
Thấy văn học miền Nam rã rời và quay quắt bởi những
văn bản pháp quy. Ngay những ngày đầu khi đất nước thanh bình, Bộ trưởng Bộ
Thông tin Văn hoá Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban
hành Thông tri số 218/CT.75 (28.8.1975) và số 15/TTVH/MCTH (8.3.1976) cấm cửa
"nọc độc
văn hóa đồi trụy".
Thế rồi, Sở Thông tin Văn hóa Sài Gòn mở thêm chiến
dịch thu hồi các loại văn hoá phẩm phản động bằng Thông tri số 12030/STTVH/XB
(3.5.1977).
Và Ủy ban Nhân dân Thành phố Sài Gòn dồn tiếp Chỉ thị
22/CT-UB (29.4.1981) còn Sở Văn hoá và Thông tin cho ấn hành danh mục sách cấm
và tạm được lưu hành (6.1981)...
Thấy dòng thác cuốn phăng những di hại của thứ văn
hóa ấy. Như Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn
hóa tư tưởng (1980). Mỗi bài viết trong công trình hợp soạn này nghị án một
gương mặt khác hội khác thuyền. Hãy đọc Phan Đắc Lập khinh miệt Hồ Hữu Tường, một
quái tượng trong bọn cầm bút chống phá cách mạng. Còn Huy Khánh không tiếc
lời mạt sát Duyên Anh, tuổi trẻ, bịp và thực.
Ấy là chưa kể Thùy Dương men theo Những bước đường sáng tác tội lỗi của Nhã Ca...
Lời nào cũng cường điệu. Ý nào cũng khô khốc. Lời và ý nào cũng hãi hùng. Vũ Khắc Khoan, tác giả Thần tháp rùa,
Thành Cát Tư Hãn, Mơ Hương Cảng..., chiếu
rọi thân phận con người cùng nghệ thuật với cuộc đời mà tỏ hiện cùng khắp trang
viết là những "luận điệu mẹ mìn", "ý đồ chính trị phản động", "thủ
đoạn chống phá tinh vi", "nọc độc triết lý hiện sinh sa đọa"...
Những người có quyền ấy đắc thắng quá. Những con chữ
ấy ngoa ngoắt quá. Những dạy dỗ ấy "có gang có thép" quá. Tất cả là
chứng tích gợi nhắc đến những "yêu ngôn" tạt qua sinh hoạt trí thức
ngày nào.
Hãy tìm đến giọng điệu có phần nhẹ nhàng hơn trong Về
tư tưởng và văn học phương Tây hiện đại (1986) của Phạm Văn Sĩ. Nhẹ nhàng là vậy
nhưng không giấu được sự quy chụp thô vụng và khiếm nhã. Ở đây, nhà nghiên cứu
định danh dòng văn chương nữ lưu... của những Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng... là "loại văn chương tính dục hạ cấp".
Là của con người ăn chơi trụy lạc, vô lý tưởng và mục đích. Là của xã hội tha
hóa hưởng thụ, phá hoại nền đạo đức cổ truyền.
Nhưng sự "Trở về mái nhà xưa" (Chủ đề buổi
trò chuyện nhân dịp ba tập truyện ra mắt ngày 19.1.2013) của Trần Thị NgH và mới đây, ngày
19.3.2017, của Nguyễn Thị Thụy Vũ...
chứng thực giá trị thời đại và ý nghĩa xã hội trên trang viết của những cây bút
nữ này.
Kẻ trước người sau góp thêm, bày ra, nối lời, nói tiếp...
về "lũ bồi
bút, không phản động, chống cộng thì cũng dâm ô, đồi trụy" hay "mánh
lới, ngón nghề của tay sai chủ nghĩa thực dân mới".
Có thể kể ra đây vài cây bút "trấn thủ lưu đồn"
nơi hiểm yếu của đường lối văn nghệ.
Đó là Trần Độ
với Khẩn trương
và kiên trì xóa bỏ hậu quả của văn hóa thực dân mới (1981). Đó là Hà Xuân Trường với Tiếp tục đấu tranh xóa bỏ tàn dư văn hóa thực
dân mới (1979).
Đó là Lữ
Phương với Cuộc
xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam (1981, tái bản 1985)... Giờ đây, niềm tin in dấu
trong từng trang viết hẳn đã đi đằng nào. Giờ đây, con chữ tranh hơn tranh thua
đã rỗng nghĩa, chỉ còn giữ được cái vỏ âm thanh, chẳng mấy ai để ý đến.
Nhưng đáng kể hơn là "tập đại thành" Văn
hóa, văn nghệ phục vụ chủ nghĩa thực dân mới Mỹ tại Nam Việt Nam 1954 - 1975 của
Trần Trọng Đăng Đàn. Theo như Lời giới thiệu, đây là kim chỉ nam để xây dựng tủ
sách: "(…) có tập sách này sẽ dễ
dàng hơn trong việc biết (...) những sách gì là tốt, sách gì là xấu, sách nào bị
cấm, sách nào được lưu hành, sách nào, văn hóa phẩm nào từ thời Mỹ-ngụy còn lại
cần được sử dụng theo phương hướng nào (…)".
Trần
Trọng Đăng Đàn không cho phép
xem "văn học thực dân mới" là "một giai đoạn, một phần của văn
nghệ Việt Nam hiện đại". Những "con ranh con lộn" ấy
không thể nối tiếp dòng chảy văn học từ 1954 trở về trước và hiện diện trong đồ
biểu, bảng lược đồ hay cuốn sổ văn học hiện đại. Ông dụng công kết tội các nhà
nghiên cứu miền Nam nhập nhèm trắng đen với chính tà. Đây là Uyên Thao trong Thơ Việt hiện đại 1900 - 1960 (1969) tùy tiện phối kết dòng thơ Việt từ Phan Bội
Châu, Nguyễn Thiện Thuật, Tản Đà... đến "các cây bút phục vụ đắc lực nhất cho Mỹ Ngụy".
Chép lại mà ngờ ngợ cái sai, cái quấy, cái kỳ lạ này. Dẫu Nam Bắc phân tranh
thì lịch sử văn học cứ là dòng chảy không hề đứt đoạn và vẫn là sự tổng hòa những
mảnh ghép của bức tranh toàn cảnh. Chẳng phải vậy sao?
Xin trở lại danh mục sách cấm và được phép lưu hành
tập hợp trong "tập đại thành" kể trên. Riêng tác giả với toàn bộ tác
phẩm bị cấm lên đến hàng trăm. Người ngoài cuộc Flemming, Gheorghiu, Sagan...
cũng như kẻ mang vòng nguyệt quế Nobel như Pasternak, Solzhenitsyn "ngẩng
lên trông trời" không khỏi ngỡ ngàng vì sao bản thân bị liệt lên đầu bảng
"nô dịch, lai căng, lạc hậu...". Cây bút đồng chủng đồng văn Quách
Lương Huệ, Kawabata Yasunari, Natsume Sōseki... cũng như danh gia Somerset
Maugham, Stephan Zweig, Kahlil Gibran... "cúi xuống nhìn đất" cũng
không khỏi bối rối vì sao trước tác của mình "có hại trong việc giáo dục đạo
đức và thẩm mỹ".
Danh mục mang ý nghĩa lịch sử này là dẫn liệu gợi mở
vài ý niệm sơ khởi về tác phẩm, tác giả và phong khí thời đại. Nó có thể mách bảo
rằng việc cấm kỵ, một phần phụ thuộc vào nội dung và quan trọng hơn, vào nhân
thân. Trong tình thế chẳng đặng đừng, danh mục này trở thành thư mục đầu tiên
(dẫu chưa đúng quy cách) tổng kê hàng loạt dữ kiện có giá trị tham khảo. Riêng
với giới chơi mảng sách trước 1975 là cẩm nang dò tìm sách cần sưu tập, đo lường
mức độ quý hiếm...
Một chính thể không
chỉ có lãnh thổ, con người, bộ máy hành chính... mà còn có cả nền văn nghệ nữa.
Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam phải kiến tạo một nền
văn học.
Các yếu nhân đặt viên gạch nền móng hầu hết từ đất Bắc vào chi viện. Nguyên Ngọc
với Đất nước đứng lên (1955) bây giờ là Nguyễn Trung Thành cùng Trên quê hương
những anh hùng Điện Ngọc (1969). Ca Lê Hiến từng viết Tiếng gà gáy (1965) trở
thành Lê Anh Xuân với Hoa dừa (1969). Hay Lê Khâm với Bên kia biên giới (1958)
chuyển thành Phan Tứ cùng Gia đình má Bảy (1968)... Mà nơi đó, còn có thêm những
Nguyễn Ngọc Tấn (Nguyễn Thi), Bùi Đức Ái
(Anh Đức), Nguyễn Văn Bổng (Trần Hiếu Minh)...
Cuộc chiến chưa kết thúc, Phạm Văn Sĩ đã kịp tổng kết thành quả đó bằng công trình Văn học giải phóng
miền Nam (1975, tái bản 1976). Không những
tán dương "quang cảnh tươi sáng rực
hồng ban mai" của "nền văn
học của nhân dân miền Nam thời chống Mỹ". Mà còn hơn thế nữa. Văn học
giải phóng miền Nam ý chừng là giải pháp "đào thải" văn học miền Nam
1954 - 1975 và ươm ghép vào chỗ khuyết vắng đó trong cây phả hệ văn
chương nước nhà.
Đôi chút ngần ngừ. Không lẽ
mục từ "văn học giải phóng miền Nam"
hay "văn học chống Mỹ" có
thể thay cho "văn học miền Nam 1954
- 1975" trong các từ điển văn học?
Đã hơn bốn mươi năm trôi qua. Nhận thức chưa rẽ chiều
đổi hướng rõ rệt nhưng thước đo thẩm định giá trị nghệ thuật có phần đong đưa
và co duỗi. Sau một thời gian lặng lờ giữa chiều tà bóng khuất, từng tác phẩm
được xem xét ngưỡng tốt xấu và cấp thị thực thông hành. Vậy là bỗng dưng bừng
sáng bao nhiêu chân dung của thời đoạn 1954 - 1975 trên lãnh thổ phía Nam vĩ
tuyến 17.
Cũng phải, với Phạm
Công Thiện, trước tác sau 1975 ngao du nơi chân trời góc bể nay quay về đứng
cạnh một ít tác phẩm trước 1975 đã được hồi sinh trong nước. Như dấu gạch nối
những mảnh hình hài cách trở của một đời văn. Như một minh chứng rằng đời sống
văn chương học thuật là một mạch ngầm chuyển động không ngừng, có thể chạy dài
đến những bến bờ xa xôi.
Theo ước tính của nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương
(2012), chừng 160 tác giả miền Nam được phục dựng.
Từ cuối những năm 1980, bao nhiêu tiểu
thuyết và sách dịch chiếm lĩnh thị trường chữ nghĩa. Và sang thế kỷ XXI, văn
thơ và các nghiên cứu văn sử triết gắn với "tàn tích văn hóa Mỹ Ngụy" công
khai trùng phùng trên quê hương.
Những Bùi
Giáng, Nguyễn Vỹ, Nguyên Sa, Vũ Hoàng Chương từng bị vạch mặt là buông thả, sa đọa,
cuồng loạn...
Những Nhất Hạnh,
Dương Nghiễm Mậu, Tràng Thiên (Võ Phiến).... từng bị cáo buộc là "biệt kích văn
hóa".
Giờ đây, họ vai sánh vai duyên hành cùng đời sống
nghệ thuật nước nhà. Và rồi báo chí đăng tải các nghiên cứu về tác giả, tác phẩm,
hiện tượng văn học... Không ít khóa luận, luận văn, luận án và chuyên khảo...
chọn "đứa con hoang" đó làm đối tượng khảo sát, cắt nghĩa, thẩm định,
bình giá...
Trang sách cũ chưa gấp hẳn và trang sách mới còn lưỡng
lự... Hoa trái của văn học miền Nam 1954 - 1975 chính thức đâm chồi, nảy lộc
trong khu vườn văn chương ngát hương hãy còn là một chặng đường nhọc nhằn.
Trần
Trọng Cát Tường
(BBC Tiếng Việt)