„Hồ Chí Minh với bản chất và hiểm họa của cộng sản đã khiến cho dân
tộc phải lầm đường lạc lối...
Cũng không ai, ngoài những người cộng sản Việt Nam, nghĩ rằng Hồ
Chí Minh là một anh hùng dân tộc.“
Họa Cộng Sản
Nguyễn Cao Quyền
Thuật ngữ “cộng sản” xuất hiện một cách chính thức
trong Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản do Karl Marx và F. Engels soạn
thảo và công bố năm 1848. Nhưng nó không xuất hiện bình thường mà xuất hiện dưới
hình thức một sự đe dọa siêu hình: bóng ma cộng sản.
Thế rồi bóng ma cộng sản dần
dần trở thành sự thật và đã ám hại 2/3 nhân loại trong suốt một giai đoạn lịch
sử kéo dài hơn 150 năm.
Bóng ma đó đã hiện hình thành một mỹ nhân đầy quyến
rũ. Nhưng khi quyến rũ xong thì nó lộ mặt thật là một con quỷ ăn thịt người. Tất
cả những người nhẹ dạ không cưỡng nổi sức quyến rũ của nó đều bị ăn thịt.
Cách diễn tả này có thể làm cho người đọc rùng rợn
nhưng thực tế đã xảy ra như thế. Những vụ cộng sản ăn thịt chính con dân của nó
đã xảy ra khắp mọi nơi nên ai cũng biết. Một trăm triệu người đã bị nó lạnh
lùng giết hại và hiện tượng khiếp đảm này đã được ghi lại bằng hình ảnh, nhân
chứng và tài liệu.
Sức quyến rũ của chủ nghĩa
‘Cộng Sản”
Sức quyến rũ của chủ nghĩa cộng sản là
huyền thoại về thiên đường xã hội chủ nghĩa của Karl Marx. Triết
gia người Đức gốc Do Thái này rất thông minh nhưng suốt đời nghèo khó. Sự nghèo
khó đó tạo ra lòng ganh ghét đưa ông đến quyết định dùng hết khả năng và đời
mình để tạo ra một huyền thoại dùng làm vũ khí trả thù chứ không phải để cứu vớt
nhân loại.
Huyền thoại đó là tập Tư Bản Luận,
một thời đã được đã được một phần không nhỏ của nhân loại lưu tâm hâm mộ. Tính
huyền thoại này không kéo dài được bao lâu thì đã bị cả Marx và Engels thu hồi
và cải chính vì đã sớm bị một nhóm người khám phá. Nhưng không may cho nhân loại,
trong nhóm người đó có Lenin.
Lenin
là người “giác ngộ” đầu tiên nhưng với giác quan nhạy bén đồng thời ông cũng trông thấy ở huyền thoại này một khía cạnh có thể phục vụ
cho tham vọng chính trị của riêng ông. Để thỏa mãn tham vọng đó, Lenin kết
hợp kết hợp cái phần lỗi thời của chủ nghĩa Marx với chủ nghĩa cách mạng bạo lực
của Mechayev thành chủ nghĩa Marx- Lenin.
Chủ nghĩa Marx-Lenin
Dùng chủ nghĩa cách mạng bạo lực này
Lenin đã cướp được chính quyền ở Nga năm 1917. Hai năm sau,
Lenin lại dùng nó để phát triển và thành lập Đệ Tam Quốc Tế tức Quốc Tế Cộng Sản.
Lenin dùng Quốc Tế Cộng Sản để bành trướng đê quốc Liên Xô trên khắp thế giới,
đặc biệt là trên những cựu thuộc địa của Anh, Pháp trong vùng các quốc gia chậm
tiến Đông Phương.
Quốc Tế Cộng Sản (QTCS) là cơ quan đầu não có nhiệm
vụ sách động và tài trợ những đảng cộng sản địa phương nổi loạn chống lại thực
dân da trắng, rồi dùng bạo lực buộc họ dâng hiến dân tộc mình cho đế quốc Liên
Xô.
Những chiêu bài cách mạng vô sản thế giới,
đấu tranh giai cấp, nghĩa vụ quốc tế vô sản được QTCS tung ra để xóa nhòa các ý
niệm “quốc gia dân tộc” và gỡ bỏ làn ranh “lãnh thổ” không ngoài lợi ích lợi dụng lòng yêu nước của
các dân tộc thuộc địa dưới chiêu bài giải phóng.
Trong những thập niên 1920, thế giới đã bị lừa về ý
niệm kẻ thù. Nhờ đó mà đế quốc Liên Xô phát triển nhanh chóng đến độ đã có thể
chuẩn bị “thống trị” nhân loại. Nhưng tham vọng đế quốc
của Lenin và những người kế nghiệp đã không thành công vì sức sống của hệ thống
tư bản dân chủ không những đã không giãy chết như Marx cầu nguyện mà
trái lại còn phát triển như chưa bao giờ thấy trong lịch sử nhân loại.
Khi cái “thiên đường của Marx” xuất hiện lẫy lừng
trong các xã hội dân chủ tiền tiến Tây Phương vào nửa phần sau của thế kỷ 20
thì hệ thống cộng sản của Lenin sụp đổ.
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản
Việt Nam
Hồ Chí Minh đã có một cơ duyên bất ngờ với QTCS ngay
trong những này đầu của tổ chức đế quốc này. Cơ duyên đó đã khiến Hồ trở thành
một cán bộ cộng sản quốc tế được trọng dụng. Chính vì bị chóa mắt bởi cái “Cương
Lĩnh Về Vấn Đề Thuộc Địa” và không đủ trình độ để phát hiện bản chất lừa
bịp của cương lĩnh đó nên y đã hãnh diện nhận lãnh mọi mệnh lệnh của Moscow.
Hồ đã mang vào Việt Nam cái chủ nghĩa Marx
lỗi thời đã bị chính Marx và Engels chối bỏ từ sau Quốc Tế I, cộng với cái kinh
bổn bạo lực của Mechayev để biến chế độ chính trị của đất nước này thành một
phiên bản thu nhỏ của chế độ độc tài toàn trị Stalinit mà
không biết làm như thế là đặt tổ quốc vào guồng máy cai trị của đế quốc Liên
Xô.
Khi còn sống Stalin đã giao cho Mao Trạch
Đông trọng trách trông nom và giúp đỡ các nước cộng sản chư hầu tại phương Đông.
Nói khác, Mao Trạch Đông chỉ là bàn tay nối dài của Stalin. Vì có sự bàn giao
trách nhiệm này nên mới có vụ quân viện ồ ạt năm 1950 cùng với sự cố vấn tâm
tình của các tướng Trung Cộng Trần Canh và Vi Quốc Thanh làm nên thắng lợi của Điện Biên Phủ và đưa đến thảm họa chia đôi đất
nước.
Máu của nhân dân Việt Nam đã đổ, binh sĩ của cộng sản
Bắc Việt đã chết nhưng đến khi thắng trận thì đại diện của Việt Minh không được
có mặt trong các cuộc thảo luận chia chác lãnh thổ giữa thực dân và đế quốc.
Bài học cay đắng này lịch sử sẽ còn ghi lại đến ngàn thu. Đó là chuyện từ năm
1954 về trước.
Sau năm 1954, chẳng những kinh nghiệm cay đắng này
không được rút tỉa, mà họ Hồ tuy tuổi già sức yếu, vẫn cố gắng hoàn tất sự nghiệp
lầm lỗi của mình. Hồ chết đi trong lúc ý nguyện chưa thành. Di sản và chúc thư của Hồ để lại không phải là những thứ đã
giúp đàn em ông thống nhất lãnh thổ, mà sự thống nhất này tình cờ xảy ra vì có
sự tái phân phối chiến thuật giữa Trung Cộng và Hoa Kỳ để làm suy yếu Liên Xô.
Đảng CSVN lúc nào cũng chỉ là một thứ tay sai. Đó là chuyện của giai đoạn
1954-1975.
Sau 1975, tuy lãnh thổ đã thống nhất
nhưng dân tộc thì chưa. Hai triệu người Việt Nam đã liều chết
ra đi trên biển cả mênh mông để né tránh những vụ chém giết và đày ải hãi hùng
như đã được chứng kiến trong các vụ cải cách ruộng đất sau năm 1954 và trong
chính sách tập trung cải tạo sau năm 1975.
Trong nước sự chia rẽ trong hàng ngũ lãnh lãnh đạo đảng
đã đưa đến việc bất ngờ là Hà Nội đã trở mặt với Bắc Kinh để ôm chân Moscow. Hậu
quả của sự trở mặt này là một “nghĩa vụ quốc tế” đã phải làm thêm qua hình thức
chiến tranh Campuchia và một “bài học” giáng xuống từ Bắc Kinh cho cái tội vô
ơn và không biết phục tùng của đảng CSVN. Cả hai biến cố này, dân tộc đã phải bằng
rất nhiều máu và nước mắt.
Đến khi đế quốc Liên Xô sụp đổ vào đầu thập niên cuối
cùng của thế kỳ 20, để tránh bị tình trạng cô lập khó sống, bọn lãnh đạo cộng sản
hèn nhát lại muối mặt đem thân sang quy phục Bắc kinh tại Thành Đô năm 1990 để
xin thân phận chư hầu. Một nền đô hộ khác lại tiếp tục tàn phá non sông. Dân tộc vẫn chưa ra khỏi tình trạng túng quẫn, tụt hậu và
thiếu học. Chế độ độc tài toàn trị vẫn còn đó, chưa gỡ bỏ được. Viễn tượng chư
hầu Hán tộc ngày đêm bao phủ non sông đang buộc bọn lãnh đạo cộng sản phải
thi hành những nghĩa vụ trái với quyền lợi của giống nòi và đạo lý của cha ông.
Hồ Chí Minh với bản chất và hiểm họa của
cộng sản đã khiến cho dân tộc phải lầm đường lạc lối. Không
ai nghĩ rằng với một việc làm lầm lỗi như vậy, những người cộng sản Việt Nam lại
có thể tự coi là có quyền vĩnh viễn ở lại chính quyền. Cũng
không ai, ngoài những người cộng sản Việt Nam, nghĩ rằng Hồ Chí Minh là một anh
hùng dân tộc.
Đối với Việt Nam thì cộng sản là như vậy.
Còn đối với nhân loại thì cộng sản là gì? Trước khi chấm dứt bài
viết xin được chép lại một và danh ngôn để không bao giờ quên được: "Cộng sản là loài cỏ dại mọc trên hoang tàn của chiến
tranh, là loài trùng độc sinh sôi và nảy nở trong rác rưởi của cuộc đời" (Đạt Lai Lạt Ma); "Chủ nghĩa cộng sản chỉ là giấc mơ của vài người, nhưng là
cơn ác mộng của nhân loại" (Victor Hugo); "Cộng sản
không thể nào sửa chữa mà cần phải đào thải nó" (Boris Yeltsin).
Nguyễn Cao Quyền