„Cho đến nay, chưa có ai thách thức việc Trung cộng dùng thương mại
làm vũ khí. Phải có một chiến lược quốc tế có phối hợp, phục hồi lại TPP, coi
nó là yếu tố thực sự cần thiết, mới có cơ hội buộc các nhà lãnh đạo Trung cộng
phải chơi theo đúng luật. „
Trung cộng dùng thương mại làm vũ khí
BRAHMA CHELLANEY (Project
Syndicate)
Phạm Nguyên Trường dịch
Trường hợp trả đũa về thương
mại đối với Na Uy còn nổi tiếng hơn, được áp dụng sau khi giải Nobel Hòa bình
2010 được trao cho nhà bất đồng chính kiến Trung cộng đang bị giam giữ là Lưu
Hiểu Ba. Kết quả là việc xuất khẩu cá hồi Na Uy sang Trung cộng bị sụp đổ.
Trung cộng phủ nhận việc kết hợp kinh
doanh với chính trị, nhưng nước này đã sử dụng thương mại nhằm trừng phạt những
nước không đi theo đường lối của họ từ khá lâu rồi. Những
biện pháp trường phạt kinh tế nặng nề mà Trung cộng áp dụng ở Hàn Quốc trong thời
gian gần đây nhằm phản ứng lại quyết định triển khai hệ thống tên lửa phòng thủ
(THAAD) của nước này chỉ là ví dụ mới nhất về việc chính quyền Trung cộng sử dụng
thương mại làm vũ khí chính trị.
Chính phủ Trung cộng đã khuyến khích và sau đó lợi dụng
sự phụ thuộc về kinh tế của các nước khác nhằm buộc họ ủng hộ các mục tiêu của
chính sách đối ngoại của nước này. Các biện pháp trừng phạt về kinh tế của Trung
cộng bao gồm hạn chế nhập khẩu hoặc tẩy chay không chính thức hàng hoá từ đất
nước mà họ nhắm tới, ngăn chặn việc xuất khẩu các loại hàng hoá chiến lược (như
đất hiếm) và khuyến khích các cuộc biểu tình phản đối các doanh nghiệp của đất
nước cụ thể nào đó. Các công cụ khác, gồm có hoãn các chuyến du lịch và ngăn chặn
đánh bắt cá. Tất cả những biện pháp này đều được sử dụng một cách thận trọng nhằm
tránh sự gián đoạn có thể làm tổn hại những lợi ích kinh doanh của chính Trung
cộng.
Mông Cổ đã trở thành trường hợp điển hình về tình trạng
áp bức về kinh tế-địa chính trị, sau khi nước này đón tiếp Đạt Lai Lạt Ma hồi
tháng 11 năm ngoái. Trong khi Trung cộng mua tới 90% lượng hàng hoá xuất khẩu của
Mông Cổ, chính quyền Trung cộng quyết định dạy cho Mông Cổ một bài học. Sau khi
áp đặt các khoản phí trừng phạt đối với hàng xuất khẩu của Mông Cổ, Ngoại trưởng
Trung cộng, Vương Nghị, nói: “Hy vọng Mông Cổ suy nghĩ thấu đáo bài học này” và
“Tuân thủ nghiêm túc lời hứa của mình” là không mời lãnh đạo tinh thần của Tây
Tạng một lần nữa.
Trường hợp trả đũa về thương mại đối với Na Uy còn nổi
tiếng hơn, được áp dụng sau khi giải Nobel Hòa bình 2010 được trao cho nhà bất
đồng chính kiến Trung cộng đang bị giam giữ là Lưu Hiểu Ba. Kết quả là việc xuất
khẩu cá hồi Na Uy sang Trung cộng bị sụp đổ.
Năm 2010, Trung cộng đã lợi dụng thế độc quyền toàn
cầu của mình trong việc sản xuất đất hiếm nhằm gây đau khổ cho Nhật Bản và
phương Tây bằng lệnh cấm xuất khẩu mà không báo trước. Năm 2012, sau khi vụ
tranh chấp chủ quyền với Nhật Bản đối với quần đảo Senkaku (Nhật Bản kiểm soát
từ năm 1895) bùng phát trở lại, Trung cộng lại sử dụng thương mại làm vũ khí
chiến lược, làm cho Nhật Bản thiệt hại tới hàng tỉ USD.
Tương tự, tháng 4 năm 2012, sau sự cố gần bãi cạn
Scarborough ở Biển Đông, Trung cộng đã bắt nạt Phi Luật Tân không chỉ bằng cách
gửi các tàu tuần tra tới vùng này, mà còn khuyên dân chúng tẩy chay, không đi
du lịch tới nước này và áp đặt những hạn chế đột ngột đối với việc nhập khẩu
chuối (làm nhiều người trồng chuối Phi Luật Tân phá sản). Khi quốc tế tập trung
chú ý vào các hành động thương mại, Trung cộng liền lặng lẽ chiếm bãi cạn.
Những vụ trả đũa về thương mại gần đây của Trung cộng
nhằm chống lại Hàn Quốc vì nước này cho triển khai hệ thống THAAD phải được xem
xét trong bối cảnh vừa nói. Trung cộng không áp dụng những biện pháp trả đũa nhằm
chống lại Mỹ, mà Mỹ mới là nước triển khai hệ thống phòng thủ nhằm đối phó với
đe doạ của Bắc Triều Tiên và có thể phản ứng lại một cách cứng rắn. Đây cũng
không phải là lần đầu tiên: Năm 2000, khi Hàn Quốc tăng thuế nhập khẩu đối với
tỏi nhằm bảo vệ nông dân trước những vụ nhập khẩu ồ ạt, Trung cộng đã phản ứng
bằng cách cấm nhập khẩu điện thoại di động và polyethylene của Hàn Quốc. Những
biện pháp trả đũa tràn lan nhằm chống lại những sản phẩm không liên quan không
chỉ nhằm thúc đẩy các ngành sản xuất trong nước, mà còn để đảm bảo rằng Hàn Quốc
thiệt hại nhiều hơn hẳn Trung cộng.
Trung cộng sẽ không sử dụng đòn thương mại
khi nước này bị mất nhiều hơn, như vụ đối đầu giữa quân đội Trung
cộng và Ấn Độ tại nơi mà đường biên giới của Tây Tạng, Bhutan và bang Sikkim của
Ấn Độ tiếp giáp nhau cho thấy. Các nhà lãnh đạo Trung cộng đánh giá cao quan hệ
thương mại một chiều với Ấn Độ - xuất khẩu cao gấp 5 lần nhập khẩu – coi đó là
vũ khí chiến lược nhằm cắt đứt cơ sở sản xuất của đối thủ trong khi thu được
khá nhiều lợi nhuận. Vì vậy, thay vì ngăn chặn việc buôn bán qua biên giới, có
thể khuyến khích những biện pháp trả đũa về kinh tế của Ấn Độ, Trung cộng áp dụng
biện pháp cấm người hành hương Ấn Độ tới những khu vực thiêng liêng ở Tây Tạng
Nơi nào mà Trung cộng nắm được đòn bẩy
thương mại thì họ sẽ sử dụng ngay lập tức. Một nghiên cứu được tiến
hành năm 2010 phát hiện ra rằng xuất khẩu tới Trung cộng từ những nước từng đón
tiếp Đạt Lai Lạt Ma đã giảm rất nhanh, từ 8,1 tới 16,9%, kết quả là hiện nay hầu
hết các nước , trừ Ấn Độ và Mỹ, đều tránh gặp gỡ chính thức với nhà lãnh đạo
Tây Tạng.
Thực tiễn khắc nghiệt là Trung cộng đang
trở thành bạo chúa thương mại và đang có những hành động bạo ngược đối luật
pháp quốc tế. Những hành động vi phạm của nước này bao gồm: Giữ các rào cản phi thuế quan
để ngăn chặn cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài, trợ cấp xuất khẩu, ủng hộ các công ty Trung cộng, xâm phạm sở hữu trí tuệ, sử dụng luật chống độc quyền để xoá bỏ
các nhượng bộ và ủng hộ việc mua lại của
các công ty nước ngoài để đưa công nghệ của họ về nước.
Trung cộng thậm chí còn coi các hiệp định
song phương chỉ là công cụ nhằm giúp họ đạt được các mục tiêu của mình.
Theo quan điểm của Trung cộng, không có hiệp định nào là có hiệu lực ràng buộc,
một khi nó phục vụ mục đích trước mắt của nước này, như các quan chức gần đây
đã thể hiện bằng cách cắt xén Tuyên bố chung Trung cộng-Anh vào năm 1984, mở đường
cho việc chuyển giao Hồng Công năm 1997.
Trớ trêu là, Trung cộng đã phát triển sức mạnh
thương mại của mình với sự giúp đỡ của Mỹ, nước này có vai trò quan trọng trong
quá trình vuơn lên về kinh tế của Trung cộng vì đã gỡ bỏ các biện pháp trừng phạt
và đưa họ vào các thiết chế toàn cầu. Việc bầu Donald Trump lên làm tổng thống
được người ta cho là sẽ chấm dứt giai đoạn Trung cộng hưởng quá nhiều lợi ích từ
thương mại. Tuy nhiên, không những không có bất kỳ hành động nào nhằm chống lại
một nước mà mà từ lâu ông ta đã chỉ trích là lừa đảo, Trump lại giúp cho Trung
cộng một lần nữa trở thành vĩ đại, trong đó có việc rút ra khỏi Hiệp ước Xuyên
Thái Bình Dương (TPP) và giảm ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình
Dương.
Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đang tìm cách khôi phục
TPP, mà không có Mỹ, có thể giúp kiềm chế những hành vi trục lợi không ngừng
nghỉ của Trung cộng bằng cách tạo ra cộng đồng kinh tế thân thiện với thị trường
và dựa vào luật pháp. Nhưng nếu muốn TPP thực sự có hiệu quả trong việc cân bằng
uy quyền mà chế độ độc tài đầy sức mạnh và tập quyền cao độ đang nắm thì phải mở
rộng cho cả Ấn Độ và Hàn Quốc tham gia.
Cho đến nay, chưa có ai thách thức việc Trung
cộng dùng thương mại làm vũ khí. Phải có một chiến lược quốc tế có phối hợp, phục
hồi lại TPP, coi nó là yếu tố thực sự cần thiết, mới có cơ hội buộc các nhà
lãnh đạo Trung cộng phải chơi theo đúng luật.
Brahma
Chellaney, Giáo sư về
nghiên cứu chiến lược tại Trung tâm nghiên cứu chính sách ở New Delhi và cộng
tác viên của Viện Robert Bosch Berlin. Ông là tác giả của 9 đầu
sách, trong đó có cuốn Asian Juggernaut, Water: Asia’s New Battleground, and
Water, Peace, and War: Confronting the Global Water Crisis. (Tạm dịch: Nước, Sức
mạnh tàn phá của châu Á: Chiến trường mới của châu Á, Nước, Hoà bình và Chiến
tranh: Đối mặt với khủng hoảng nước toàn cầu)