Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh
CHƯƠNG
15
ÁP LỰC TRUYỀN KIẾP: NGƯỜI HÁN
ÁP LỰC TRUYỀN KIẾP: NGƯỜI HÁN
Phạm Việt Châu
Hơn
40 năm sau khi loạt bài Trăm Việt
Trên Vùng Định Mệnh được đăng tải lần đầu trên tạp chí Bách Khoa
(Sài Gòn 1969-1974), cùng với các tranh chấp biên giới và lãnh hải giữa Việt
Nam và người láng giềng khổng lồ phương Bắc (và với cả các lân bang Trăm Việt),
những điều chứa đựng trong Trăm
Việt Trên Vùng Định Mệnh ngày càng minh bạch và đầy ý nghĩa
Những
tiếng nói “nhân danh bảy trăm triệu nhân dân Trung Hoa” của Mao Trạch Đông cất
lên đầy thách đố với thế giới, chắc chắn không phải phát xuất từ ý thức đấu
tranh cho vô sản, vì trong số 700 triệu ấy còn không biết bao nhiêu “kẻ thù” của
giai cấp này. Thực tế, người ta chỉ có thể nhìn thấy khía cạnh vị tộc trong giọng
điệu kiêu căng phô trương sức mạnh nhân số ấy.
Thế
giới nói chung vẫn ngại ngùng trước mưu đồ muốn dùng một phần tư nhân loại đó để
gây loạn. Trong sự ngại ngùng, người ta đã từng thấy rõ rệt những khuynh hướng
muốn cầu hoà, muốn thần phục và những khuynh hướng muốn chống đối, muốn đương đầu.
Đông Nam Á nói riêng cũng không thoát ra ngoài hai khuynh hướng trên. Nhưng tự
xé lẻ để cầu hoà, thần phục có thể được để ở yên trong giai đoạn hiện tại, song
lấy gì bảo đảm cho tương lai, trong khi Trung Hoa đã có sẵn dự kế thống trị.
Còn chống đối, đương đầu thì không đủ mạnh, nên có quốc gia đã bám theo đế quốc
khác để tìm sự che chở. Hành động theo phản ứng ấy đã dựa vào một mệnh đề nghe
ra thường hợp lý “Kẻ thù của kẻ thù là bạn ta”, nhưng thật ra là sai lầm ấu trĩ
trong trường hợp này. Vì hành động như vậy, chúng ta đã đồng hoá lập trường tự
vệ thiêng liêng của mình với lập trường đế quốc. Hay nói một cách khác, chúng
ta đã chỉ phụ hoạ theo tiếng gầm gừ của bày thú dữ đang tính chuyện xâu xé lẫn
nhau mà thôi.
Muốn
ý thức được con đường phải chọn trong phạm vi này, hãy lắng nghe tiếng thì thầm
thổn thức trong suốt dòng lịch sử của các bộ tộc Bách Việt từ khi dời bỏ địa
bàn Hoa Nam qua lúc hình thành các tổ hợp Đông Nam Á tới ngày nay. Tiếng thì thầm
ấy nhắc nhở chúng ta rằng: hãy trả vấn đề Trung Cộng lại cho cộng sản Nga, cho
tư bản Mỹ, còn chúng ta, nhân dân Đông Nam Á, chúng ta không có vấn đề Trung Cộng
riêng rẽ mà chỉ có vấn đề Tàu. Tàu thì lúc nào cũng chỉ là Tàu, và cái mưu đồ
theo đuổi tận diệt bằng cách đồng hoá các dân tộc nhỏ yếu xung quanh (dưới hình
thức này hay hình thức khác) từ xưa đến nay cũng vẫn thế [i]”.
Từ
nhận thức ấy, hãy bàn đến chuyện Tàu – chuyện Tàu từ Hoa Lục, chuyện Tàu từ Đài
Loan và cả chuyện Tàu ở ngay trong lòng Đông Nam Á. Từ nhận thức ấy mới thấy cần
phải phòng ngự và phòng ngự với tư thế của bầy trâu chống cọp, chứ không phải với
cung cách của trẻ nít núp váy mẹ hờ. Đông Nam Á không gây hấn, vì thực ra cũng
chẳng có sức mà gây hấn. Nhưng các nước Đông Nam Á phải nắm tay nhau giữ vững
trận tuyến của mình; có như vậy mới mong làm nhụt ý chí lũng đoạn của Bắc
phương và mới tạo được hoà bình thực sự lâu dài cho toàn vùng.
Truyền Thống Đế Quốc
Cho tới thế kỷ 19, mối liên hệ giữa Trung Hoa và các
liên bang là mối liên hệ của thiên triều với tiểu quốc, vì Trung Hoa vẫn tự coi
là trung tâm của thế giới, một tổ hợp văn minh cao cả ở giữa những tổ hợp của
các “rợ”. Vì vậy, trước kia người Trung Hoa không thể nào quan niệm nổi một
hình thái thế giới loài người quy tụ những quốc gia bình đẳng. Cái tinh thần đại
đồng được phô diễn một cách tốt đẹp trong Lễ Ký đã được người Trung Hoa hiểu một
cách thực tế là nhân loại đại đồng trong sự “coi sóc” của nòi Hán và được biểu
hiện ra thành một thứ chủ nghĩa đế quốc mệnh danh là thiên hạ chủ nghĩa.
Khi Mao Trạch Đông hô hào giải phóng toàn thể nhân
loại để thiết lập một thời đại mới thì thật ra Mao đã chỉ lập lại cái ý thức
truyền thống của Trung Hoa bắt nguồn từ trước Công nguyên và mới chấm dứt vào
cuối thế kỷ 19 [ii]. Trong giai đoạn không tiếp nối trước
Mao, Khang Hữu Vi cũng đã mưu toan xây dựng lại cái cơ cấu mục nát của Thanh
triều trên ý thức này nhưng đã thất bại (1898), cũng như Tưởng Giới Thạch đã thất
bại vì sự quật khởi của Nhật Bản, một dân tộc “rợ” vốn trước kia vẫn thần phục
Thiên triều.
Ngay từ khi mới lập quốc, người Hán đã theo đuổi một
đường lối bành trướng bằng phương cách đồng hoá mãnh liệt. Truyền thuyết Trung
Hoa còn ghi lại thời kỳ tranh chấp sông Hoàng giữa Hán và Miêu (người Mèo) vào
thiên kỷ 3 trước C.N. Trước chính sách diệt tộc của người Hán, người Mèo đã phải
lùi dần xuống phương Nam nhưng vẫn luôn luôn bị người Hán theo đuổi mà tiêu diệt.
Trong khi nhiều bộ tộc Việt đã thiên di ra xa hẳn vùng người Hán chiếm cứ thì
người Mèo vẫn lẩn quất tại Hoa Lục. Bỏ Hoàng Hà, họ lui xuống Dương Tử, rồi qua
sông đi về đông nam. Để tránh nạn diệt chủng, họ phải rút lên các núi cao vùng
Nam Lĩnh (người Hán về sau gọi là Miêu Lĩnh) ở ranh tỉnh Vân Nam, Quảng Tây, Hồ
Nam, Quý Châu và Tứ Xuyên, nơi đã được mô tả bằng thành ngữ “trời không ba ngày
sáng, đất không ba thước bằng,” vì có địa thế vô cùng hiểm trở và bị sương mù
bao phủ quanh năm. Mãi tới thế kỷ 17 mới bắt đầu có những đoàn người Mèo thiên
di xuống Đông Nam Á, tổng số hiện nay cũng chỉ độ vài trăm ngàn. Số còn lại bị
tiêu hao dần sau mỗi đợt nổi dậy chống Hán. Cho đến nay, một dân tộc trước kia
đông đảo ngang dân Hán và đã choán giữ bình nguyên phát triển văn minh thuỷ đạo
(lúa cấy ruộng nước) đầu tiên, nay chỉ còn lại 2,5 triệu người rải rác trên các
vùng cao nguyên cằn cỗi và hoàn toàn biến thành dân ở núi. Trường hợp Miêu tộc
được nêu lên ở đây chỉ là một trường hợp điển hình trong lịch sử bành trướng của
Hán tộc.
Đối với các bộ tộc khác cũng vậy. Sử còn chép vào cuối
thế kỷ 3 trước C.N., quân Tần xuống đánh Bách Việt ở miền nam, tiến quân bình định
đến đâu liền di dân Hán dành đất đến đó. Chính trong dịp này, nhiều bộ tộc Việt
đã thiên di. Trên vùng đất cũ, ngoài cuộc quật khởi của bộ tộc Lạc Việt ta để
thâu hồi độc lập, ngày nay chỉ còn sót lại vài nhóm thiểu số rút ẩn vào rừng
núi. Nhóm đông đảo nhất còn lại là bộ tộc Choang (vẫn tự xưng gốc Việt) ở Quảng
Tây. Nhóm này hiện đã được chính quyền Bắc Kinh tổ chức thành khu tự trị với mục
đích đồng hoá từng bước bằng phương cách hoà bình.
Chính sách đồng hoá các dân tộc nhỏ của Bắc Kinh
ngày nay thực ra cũng chỉ là việc kế tục các triều đại xưa và nhất là kế hoạch
do Tôn Văn đề ra. Chủ nghĩa dân tộc trong chủ nghĩa tam dân của Tôn Văn chẳng
có gì khác hơn là lập lại thành văn ý thức Đại Hán cũ. Tưởng Giới Thạch đã thi
hành chủ nghĩa ấy và Mao Trạch Đông đã nhận xét về hành động của Tưởng như sau:
“Đối với các dân tộc ít người, chúng (Quốc Dân Đảng) hoàn toàn kế thừa chính
sách phản động của chính phủ Mãn Thanh và chính phủ quân phiệt Bắc Dương, áp bức
bóc lột, không biết đến đâu mà kể. Vụ tàn sát nhân dân Y Khắc Chiếu thuộc dân tộc
Nông năm 1943, việc trấn áp bằng lực lượng vũ trang đối với dân tộc ít người ở
Tân Cương năm 1944 và cả hiện nay, vụ tàn sát nhân dân thuộc dân tộc Hồi ở tỉnh
Cam lúc mấy năm gần đây, đã chứng minh điều đó”[iii]. Ấy là chưa kể đến vụ Tưởng tàn sát dân
Đài Loan ngày 26 tháng 1 năm 1947 sau này khi Đài Loan nổi dậy đòi độc lập. Dân
gốc Đài Loan vốn không phải là người Hán. Trong vụ này, theo báo cáo của lãnh sự
Mỹ ở Đài Bắc gửi cho Bộ Ngoại Giao Mỹ, trên năm ngàn dân Đài Loan đã bị Quốc
Dân hạ sát [iv].
Từ khi Tưởng bị đánh bật ra khỏi Hoa Lục, Mao đã tiến
hành công việc Hán hoá một cách có kế hoạch hơn. Nỗ lực Hán hoá đã ảnh hưởng tới
khoảng 50 triệu dân không thuộc Hán tộc. Việc thành lập các khu tự trị được tiến
hành một cách tinh vi nhất. Một mặt lãnh địa khu tự trị sẽ dần dần bị co rút lại
để sát nhập vào các tỉnh ngay trên đất tổ của mình.
Gần đây, Cộng Hoà Nhân Dân Mông Cổ đã tố cáo bản đồ
chính trị chính thức của Trung Cộng, công bố hồi tháng 12 năm 1971 đã vẽ lại
biên giới (khu tự trị) Nội Mông, thu hẹp lãnh thổ khu này đến một phần ba so với
bản đồ chính thức công bố năm 1957. Phần lãnh thổ khu tự trị Nội Mông bị cắt
xén đã được ghép vào các tỉnh Hắc Long Giang, Liêu Đông và Trực Lệ [v].
Thật ra, dù chẳng thu hẹp khu tự trị thì chỉ nội
chính sách di dân choán đất cũng đủ làm mất ý nghĩa tự trị rồi. Trong phần đất
còn lại của Nội Mông, người Mông Cổ chỉ còn trên một triệu trong tổng số 6,5
triệu. Giả sử Trung Hoa trả lại đất Nội Mông cho Cộng Hoà Nhân Dân Mông Cổ thì
liệu Mông Cổ với dân số 1,3 triệu có dám nhận lãnh hay chăng? Tại Mãn Châu,
Trung Cộng cũng đã di dân Hán lên để triệt hẳn mầm mống phục hưng Mãn Châu quốc.
Ở miền Tây, sau khi đã kiểm soát chặt chẽ được Tân Cương bằng quân lực, Trung Cộng
đã dành cho dân Hồi Thổ (Uighur và Kazakh) chế độ khu tự trị (1953), nhưng đồng
thời cũng phát động rầm rộ phong trào cưỡng bách di dân các tỉnh ở trung nguyên
lên. Người Tây Tạng cũng đang trong tình trạng tương tự. Những cuộc hành quân
đàn áp năm 1959 đã được mô tả là quân Tàu tiến vào Tây Tạng đến đâu, dân Tàu lũ
lượt kéo theo choán đất đến đó.
Xâm lăng bằng cách di dân tràn ngập là loại xâm lăng
nguy hiểm nhất, vì đất bị chiếm không bao giờ còn hy vọng thâu hồi độc lập. Người
Hán là dân tộc đầu tiên thấu hiểu và thi hành phương cách ấy [vi]. Và chính vì sự trải mỏng trên những vùng
đất mới để đồng hoá các dân tộc nhỏ khác, dân số Tàu đã phát triển một cách
kinh khủng trong năm sáu thế kỷ vừa qua [vii]. Mức độ dân số tăng tiến quá mau đã vượt
xa diện tích đất mới. Ngày nay với chừng 800 triệu dân, Trung Hoa đang cần thấy
khó sống trong một lãnh thổ tuy rộng nhưng không đủ thực phẩm cung ứng. Sự thiếu
ăn truyền kiếp vẫn đeo đuổi người Trung Hoa như một định mệnh, vì vậy họ đã
nhìn xuống vựa lúa Á châu (vùng đất Đông Nam Á) với con mắt thèm thuồng. Đó là
lý do chính đã khiến Tàu, dù dưới chế độ nào, cũng đều mật đưa việc thôn tính
Đông Nam Á, dưới hình thức này hay hình thức khác, lên hàng đầu quốc sách.
Hãy bỏ qua những cuộc xua quân xâm chiếm trong lịch
sử mà chỉ xét ngay trong thời hiện đại, chúng ta thấy người Tàu đã chiếu cố
Đông Nam Á dưới hai hình thức trong hai thời kỳ khác nhau: từ cách mạng 1911 đến
khi thành lập Cộng Hoà Nhân Dân (1949), người Tàu đã di cư xuống các nước trong
vùng và định cư luôn. Sau 1949, phong trào di cư bị chặn đứng, người Tàu, dưới
chế độ cộng sản, bèn xoay hướng khác với kế hoạch vận dụng chính trị nhằm đưa
các quốc gia trong vùng vào vòng quỹ đạo của mình – bước đầu tiên của mưu đồ thống
trị.
Hoa Kiều Ở
Đông Nam Á
Thật ra thì
không phải mãi tới thế kỷ 20 này mới có Hoa kiều ở Đông Nam Á. Nước nào trong
vùng cũng đều ghi nhận sự hiện diện của Hoa kiều từ mấy trăm năm về trước.
Nhưng Hoa kiều chỉ trở thành vấn đề nan giải cho vùng này trong vòng nửa thế kỷ
nay, nghĩa là từ khi Trung Hoa có chính sách về Hoa kiều hải ngoại và mưu toan
sử dụng họ vào việc lũng đoạn các quốc gia cho họ trú ngụ. Tổng số người Tàu ở
Đông Nam Á hiện đã lên tới 13 triệu, nghĩa là nhiều hơn tổng số dân gốc cả ba
nước Kampuchea, Lào và Mã Lai Á hợp lại. Trừ trường hợp Miến Điện, tất cả các
nước còn lại đều đang tranh thủ một cách chật vật để tự gỡ ra khỏi vòng thống
trị về kinh tế của Hoa kiều.
Trước 1911, thường
thường chỉ có đàn ông Tàu hầu hết là nông dân và công nhân ở hai tỉnh Quảng
Đông và Phúc Kiến xuống Đông Nam Á tìm công ăn việc làm. Khi có một số vốn lớn,
họ bèn trở về xứ. Chính cái kết quả nhãn tiền về sự giàu sang mau chóng của họ
đã lôi cuốn các đợt Tàu khác xuống kiếm ăn. Ở các xứ Phật giáo như Miến Điện,
Thái, Kampuchea, Việt Nam, nhiều đàn ông Tàu đã lấy vợ trú xứ. Theo truyền thống,
họ cố gắng biến đám con cháu lai thành Tàu hay ít ra cũng thiên về tính chất
Tàu nhiều hơn. Song, cũng có những trường hợp ảnh hưởng đàng mẹ quá mạnh, nhiều
gia đình trải qua ba bốn thế hệ là trở thành người địa phương. Đối với trường hợp
này, không có vấn đề gì phải đặt ra cả, vì họ đã chấp nhận dân tộc mà họ mang
trong mình phân nửa dòng máu, chấp nhận quốc gia đã nuôi dưỡng họ, và sống hoà
đồng không kỳ thị với tập thể địa phương.
Nhưng đa số người
Tàu và Tàu lai đều không chịu địa phương hoá một cách dễ dàng như vậy. Họ đã
liên kết với nhau tranh đấu cho quyền lợi riêng của họ bằng mọi thủ đoạn sâu xa
có thể có như mua chuộc, đút lót, và đã mở mang hoạt động kinh tế của họ bằng đủ
mọi phương tiện bẩn thỉu như đầu cơ tích trữ, chợ đen, buôn lậu. Sự việc này đã
gây phẫn nộ cho chính quyền độc lập duy nhất trong vùng là Thái Lan. Năm 1910,
vua Wachirawut đã tung ra chiến dịch chống tập thể Hoa kiều mà ông gọi là “bọn
Do Thái phương Đông”. Và đến năm 1913 thì Thái Lan đưa ra đạo luật đầu tiên về
việc hạn chế hoạt động của Hoa kiều. Thật ra nếu so sánh với sự lũng đoạn kinh
tế Đông Âu của bọn mại bản Do Thái thời ấy, thì người Tàu còn nguy hiểm hơn nhiều,
vì họ không phải là những kẻ lang thang mất gốc. Họ còn có một tổ quốc phải hướng
về và trông nhờ sự che chở. Và vì vậy, ngoài tài tháo vát của họ, họ còn được một
thế lực chính trị to lớn là Trung Hoa chính quốc theo dõi và ủng hộ khi cần; nhất
là từ sau cách mạng 1911.
Từ sau 1911, phụ
nữ Trung Hoa bắt đầu tràn xuống, những gia đình thuần Trung Hoa được lập nên và
xã hội Trung Hoa ở địa phương dần dần ràng buộc thêm những quy luật từ chính quốc
đưa sang cho các tổ chức bang hội thi hành. Một mặt các bang hội Tàu lo bảo vệ
tập thể Trung Hoa về quyền lợi kinh tế, cũng như về văn hoá (để giữ nguyên truyền
thống Tàu), mặt khác họ lo đẩy mạnh việc kéo hẳn những người lai sang hàng ngũ
Tàu, phần nhiều bằng những mối lợi trước mắt. Vì vậy tập thể Hoa kiều ngày càng
đông đảo và bền chặt. Cho đến thế chiến II, người ta đã nghĩ là không có cách
gì buộc họ gia nhập vào những xã hội mà họ sinh sống. Họ lập thành một tập thể
ngoại nhân riêng biệt và cùng với tập thể thực dân Tây phương ở vùng này, họ đã
triệt để khai thác địa phương để thu lợi.
Trong việc đầu
tư khai thác, người Tây phương có vốn và uy quyền, còn người Tàu thì thực ra chỉ
đến với hai bàn tay trắng. Nhưng với sự mẫn cán và óc tổ chức sẵn có của họ,
người Tây phương đã rất tin cẩn nơi họ. Vì thế người Tàu đã trở nên trung gian,
đầu nậu trong nhiều loại nghiệp vụ khác nhau cho các chủ nhân ông Tây phương. Sống
trong thời bị trị, dân địa phương đã chịu khốn đốn dưới hai tầng bóc lột Tây và
Tàu. Tây nắm chính quyền, bóc lột bằng sức mạnh; Tàu nắm kinh tế, bóc lột bằng
mưu trá. Và với mưu trá, chẳng bao lâu đã thấy xuất hiện không biết bao nhiêu
những người Tàu làm chủ các thương điếm vĩ đại, các ngân hàng, hầm mỏ, cơ sở kỹ
nghệ.Còn các hoạt động trung bình khác thì càng không thiếu những tiệm chạp
phô, những đại lý nhu yếu phẩm, những tiệm cầm đồ, cho vay, tiệm ăn, tiểu công
nghệ, v..v…, chỉ những Tàu là Tàu. Có thể nói khắp Đông Nam Á, chỗ nào có thị
trấn là có người Tàu. Từ những cơ sở thương vụ lớn lao có tầm mức quốc tế ở
Manila đến những quán cóc ở một thị trấn heo hút như Nam Tha tại Thượng Lào, những
bảng hiệu Tàu cũng đều thấy dựng lên ngạo nghễ.
Về số Hoa kiều
ngày nay tại mỗi quốc gia, khó mà có được bảng kiểm kê chính xác, nhất là từ
khi Đông Nam Á đồng loạt tung ra những đạo luật hạn chế Hoa kiều nhập nội và địa
phương hoá Hoa kiều thổ sinh.
Tại Phi-Líp-Pin,
tới cuối thế kỷ 19, cũng là cuối thời kỳ Tây Ban Nha đô hộ, tổng số Hoa kiều
chưa tới 40.000. Nhưng sang thế kỷ 20 tới gần thế chiến II, con số này đã tăng
lên gấp10 lần. Ngày nay, người ta ước lượng tổng số Hoa kiều vào khoảng
600.000, nghĩa là 2% dân số Phi.
Tại Việt Nam,
trong những năm đầu thế chiến II, tổng số Hoa kiều chỉ có vào khoảng từ 320.000
tới 420.000; riêng tại Nam Kỳ, Hoa kiều đã tập trung đông đảo nhất và chiếm tới
75% toàn số. Nhưng từ khi chiến tranh Đông Dương bùng nổ, Hoa kiều đã lợi dụng
chính sách bỏ ngỏ của Pháp ào ạt đổ vào Sài Gòn để khai thác chiến tranh, nhất
là từ 1946 đến 1948. Sau hiệp định Genève, số Hoa kiều ở Việt Nam được ước tính
vào khoảng 900.000, nghĩa là chiếm tới 7% dân số [viii].
Tại Kampuchea,
theo thống kê 1955, tổng số Hoa kiều là 270.000 người, nghĩa là vào khoảng 5,5%
dân số. Tuy nhiên, thống kê này đã không kể đến số người lai, mặc dầu trên thực
tế số người lai ấy vẫn tự coi là người Tàu. Cũng như ở Việt Nam, người Tàu di
cư vào đông đảo nhất trong những năm đầu chiến tranh Đông Dương và cũng qua ngã
Sài Gòn. Hiện nay, người Tàu ở Kampuchea gồm tổng cộng ít ra là trên nửa triệu,
nghĩa là chiếm tới 7% dân số.
Tại Indonesia,
cuối thế kỷ 19, người Tàu có độ 200.000. Đến năm 1930 số này tăng lên
1.233.000, và sau khi Indonesia thâu hồi độc lập, tổng số Hoa kiều là 2.250.000
và đạt tới 2,7% dân số. Ngày nay, nhờ nỗ lực vận động nhập tịch, số người Tàu
thực sự được coi là ngoại kiều chỉ có 1,4 triệu. Kể từ khi bang giao Indonesia
– Trung Cộng bớt căng thẳng, việc nhập tịch không thể tiến hành được nữa, vì
Hoa kiều tin tưởng ở sự bảo vệ của chính phủ Bắc Kinh.
Tại Mã Lai Á và
Singapore, người Tàu hiện đều đông hơn người Mã gốc. Ở Mã Lai Á có 4 triệu người
Tàu, chiếm 42% dân số, trong khi người Mã gốc chỉ có 40%, phần còn lại là người
gốc Ấn, gốc Âu, v..v… Còn ở Singapore, người Tàu có 1,5 triệu và người Mã gốc
240.000 trong tổng số 2 triệu dân. Như vậy, người Mã gốc chỉ chiếm 12%, trong
khi người Tàu 75%.
Tại Lào, Hoa kiều
có 30.000, chiếm 1% dân số. Lào là nước có ít Hoa kiều nhất, nhưng lại bị Bắc
Kinh chi phối nội tình (các tỉnh Bắc Lào) nặng nề nhất.
Tại Thái, số Hoa
kiều đã lên tới 3 triệu vào năm 1957, tức 13% dân số lúc ấy (23 triệu.) Ngày
nay, khó mà phân biệt được thành phần Hoa kiều với thành phần Lukchin (cha Tàu,
mẹ Thái) vì đối với chính phủ Thái, Lukchin đương nhiên là Thái, nhưng đối với
người Tàu, họ vẫn thừa nhận quốc tịch cha cho Lukchin. Do đó, nếu kể chung cả
hai loại này thì con số phải vượt lên trên 4 triệu.
Tại Miến Điện, tổng
số Hoa kiều có chừng nửa triệu, tức độ 1,8% dân số. Ngoài loại Hoa kiều thông
thường, biên giới Thái – Miến hiện nay vẫn còn là nơi trú ngụ của đám tàn quân
Quốc Dân Đảng (đã trình bày trong chương 9). Đám quân này đã sử dụng vũ khí biến
khu vực thành địa cứ riêng của chúng. Căn cứ Quốc Dân Đảng hiện đã trở nên
trung tâm sản xuất, chế biến và phân phối ma tuý lớn nhất thế giới. Nha phiến
và bạch phiến sản xuất ở đây đã được tung ra khắp nơi qua ngã Hương Cảng và
Singapore bằng những đường dây buôn lậu quốc tế. Riêng tại Đông Nam Á, tổ chức
Quốc Dân Đảng này đã gián tiếp đầu độc hàng triệu thanh thiếu niên các dân tộc
bằng ma tuý qua hệ thống phối hợp giữa bọn tay sai Hoa kiều và bọn đương quyền
nhũng lạm ở các địa phương.
Vấn Đề Nảy
Sinh
Sự phát triển về
nhân số quá lớn lao của Hoa kiều sau thế chiến rõ ràng gây nguy hại không nhỏ
cho Đông Nam Á và làm cho các quốc gia độc lập trong vùng phải tìm biện pháp giải
quyết. Như đoạn trên đã trình bày, với hai nước có số Hoa kiều tương đối ít là
Lào và Miến, ta có thể nhìn thấy ngay nguyên nhân từ khía cạnh kinh tế mà ra. Tại
xứ Lào, dân số ít, sinh hoạt kinh tế yếu kém, lợi tức thâu hoạch từ các dịch vụ
thương mại tương đối rất thấp, nên thực sự không có gì đáng để hấp dẫn người
Tàu như các xứ khác. Tuy vậy, hiện nay người Tàu ở Lào cũng đang nắm giữ vận mệnh
kinh tế xứ này. Họ vẫn là nhóm ngoại kiều đông đảo nhất, có tổ chức chặt chẽ và
ảnh hưởng mạnh nhất. Còn tại Miến, chính vì chính sách kinh tế chỉ huy của
chính phủ Miến, các thương gia Hoa kiều đã thối chí bỏ đi hơn là các biện pháp
trực tiếp như đã được áp dụng ở các quốc gia khác.
Tại Mã Lai Á và
Singapore, tình trạng lại khác hẳn, nghĩa là vấn đề không còn giới hạn trong địa
hạt ngoại kiều nữa mà lại toả rộng ra thành cuộc tranh chấp chủng tộc giữa những
người cùng mang quốc tịch. Mặc dầu khi chấp nhận trở thành công dân của hai quốc
gia trên, người Tàu đã chấp nhận dùng ngôn ngữ Mã làm phối hợp văn hoá Mã Lai với
văn hoá Trung Hoa để tạo thành một nếp sinh hoạt chung; nhưng trên thực tế, sự
việc lại trái hẳn. Nghĩa là người Tàu sống trên đất Mã đang cố Trung Hoa hoá phần
đất này. Ở Mã Lai Á, người Tàu chống lại việc học Mã ngữ và tìm hiểu phong tục
tập quán Mã, vì họ cho rằng nền văn hoá Mã không có gì đáng kể để họ quan tâm tới.
Còn tại Singapore, có hai trường đại học thì một trường dùng tiếng Tàu, một trường
dùng tiếng Anh làm chuyển ngữ. Tiếng Mã không có chỗ đứng trong sinh hoạt văn
hoá xứ này, cũng như người Mã không còn chỗ ở trong lòng đô thị.
Tóm lại, ngoài
việc nắm giữ hoàn toàn sinh hoạt kinh tế tại Mã và Singapore, người Tàu cũng
đang bành trướng mạnh về địa hạt tạo dựng uy quyền văn hoá. Ở Mã Lai Á, quyền
chính trị vẫn còn trong tay người Mã nên dù sao cũng còn một số biện pháp chống
đỡ, mặc dù yếu ớt. Còn tại Singapore, tất cả đều đã buông xuôi mặc cho việc
Trung Hoa hoá tiến hành đến tận chân tơ kẽ tóc của hòn đảo.
Nhưng nếu sự việc
này chỉ giới hạn trong lãnh thổ Singapore thì chưa vị tất đã là điều đáng phải
báo động. Điều đáng nói là Singapore đã trở thành cái nhọt bọc của Đông Nam Á
và đang làm nhức nhối toàn vùng. Nếu cái nhọt bọc ấy chỉ là một vết thương
xoàng thì còn dễ chữa, đàng này nó lại bị làm độc từ bên ngoài nên càng nguy hiểm
hơn. Chất độc đã được nhiễm vào nó chính là từ Trung Quốc, kể cả Hoa Lục lẫn
Đài Loan, và cùng với Hồng Kông, Singapore đã trở thành trục chi phối kinh tế
toàn miền Đông Nam Á.
Cứ lấy bất cứ quốc
gia Đông Nam Á nào ra mà xét, chúng ta cũng có thể thấy cái cơ cấu chung như
sau: thành phần đầu não và đông đảo nhất của Hoa kiều tập trung ở thủ đô, dĩ
nhiên chủ động sinh hoạt kinh tế thủ đô; thành phần Hoa kiều tại các thị trấn
khác trong xứ có tỷ số kém hơn nhưng đóng vai trò trung gian quan trọng. Họ là
những người phân phối hàng hoá từ hệ thống Hoa kiều ở thủ đô về và ngược lại
thu mua sản phẩm địa phương chuyển lên thủ đô. Bằng những phương cách mờ ám
riêng, họ có thể tự ý thay đổi giá cả, tạo khan hiếm hay dư thừa một số phẩm vật,
bóp chết giới thương gia bản xứ nếu ra mặt cạnh tranh với họ trong một số dịch
vụ họ tạo được độc quyền.
Đối với toàn
vùng Đông Nam Á, Hoa kiều ở thủ đô các nước là thành phần trung gian của
Singapore và Hồng Kông. Các biện pháp chi phối nền thương mại mỗi quốc gia được
phát xuất từ trục này và giới Hoa kiều địa phương chỉ việc thi hành. Ngoại tệ của
các quốc gia đã bay sang Singapore và Hồng Kông, cũng như hàng hoá được nhập nội
từ hai địa điểm này vào phần nhiều bằng phương cách bất hợp pháp. Trên phương
diện kinh tế có thể nói Singapore và Hồng Kông chính là đầu não của một loại
Mafia Đông Nam Á với nhân số 17 triệu (nếu kể cả Hồng Kông) trong một hệ thống
có tổ chức chặt chẽ buông toả khắp nơi nhằm khuynh loát một tập thể trên 250
triệu con người trong vùng.
Những Biện
Pháp Nửa Vời
Trước trạng huống
ấy, cái quốc gia còn lại trong vùng đã làm gì để tự bảo vệ. Hai biện pháp căn bản
đã được đưa ra từ nhiều năm truớc là hạn chế các hoạt động kinh tế của Hoa kiều
và buộc họ nhập tịch trú xứ, nhưng kết quả thực sự cũng không mấy khả quan.
Thái Lan, ngay từ 1942, đã cấm ngoại kiều làm 27 nghề dành riêng cho người
Thái, hạn chế sự nhập nội và buộc nhập Thái tịch thành phần thổ sinh. Kampuchea
cũng đã đưa đạo luật cấm Hoa kiều làm 16 nghề và khuyến khích họ nhập tịch
Kampuchea từ năm 1955. Indonesia, Việt Nam, Phi-Líp-Pin cũng có những biện pháp
tương tự, nhưng tất cả đều gặp những trở ngại rất phức tạp.
Trước hết, về quốc
tịch, người Tàu đã có một nguyên tắc gần như bất dịch “đã là Trung Hoa thì mãi
mãi là Trung Hoa” được áp dụng cho tất cả những người Tàu gốc hoặc Tàu lai.
Nguyên tắc ấy được cụ thể hoá qua đạo luật ban hành năm 1909, theo đó con cái
đương nhiên mang quốc tịch cha (Jus sanguinis). Điều này trái hẳn với luật lệ
được đặt ra về sau của các nước Đông Nam Á nhằm buộc Hoa kiều thổ sinh phải nhập
quốc tịch nơi sinh (Jus soli.) Tuy nhiên, vì quyền lợi kinh tế (để tránh điều
khoản cấm hành nghề), nhiều Hoa kiều vừa nhập quốc tịch trú xứ, vừa giữ quốc tịch
Trung Hoa, tạo thành tình trạng hai quốc tịch; hoặc nhập quốc tịch trú xứ nhưng
không chịu địa phương hoá và vẫn được tập thể Hoa kiều còn lại chấp nhận là phần
tử của tập thể để cùng liên kết trong các mưu đồ chung.
Trên nguyên tắc,
một khi Hoa kiều đã nhập quốc tịch trú xứ rồi thì những luật lệ cấm ngoại kiều
hành một số nghề không còn ảnh hưởng gì đến họ nữa. Ngay cả đến những thành phần
vẫn giữ quốc tịch Trung Hoa cũng còn tiếp tục hoạt động được qua những phần tử
địa phương trung gian hay Hoa kiều đã cải tịch. Tại Indonesia, trong thập niên
50, người ta đã điều tra thấy 80% vốn các công ty mới thành lập là của Hoa kiều.
Tại Phi-líp-pin, tình trạng cũng tương tự, nghĩa là nếu chỉ kể đến tên đứng thì
số vốn đầu tư chuyển dần về phía người Phi một cách rất đáng kể, nhưng khi điều
tra lại thì chủ nhân thực sự của những số vốn ấy vẫn là Hoa kiều.
Trước những biện
pháp chung nhằm giảm thiểu sự chi phối của người Tàu đối với nền kinh tế địa
phương, chúng ta hãy thử xét trường hợp điển hình tại miền Nam Việt Nam để xem
sự việc diễn tiến ra sao. Năm 1956, chính phủ Ngô Đình Diệm đã ban hành Dụ số
53 cấm ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều) làm 11 nghề:
- Buôn
bán thịt cá.
- Buôn
bán than củi.
- Mở
tiệm chạp phô.
- Mở
cây xăng.
- Buôn
bán vải vóc tơ lụa.
- Buôn
bán sắt đồng thau vụn.
- Mở
nhà máy xay lúa.
- Buôn
bán ngũ cốc.
- Hành
nghề chuyên chở.
- Cầm
đồ bình dân.
- Trung gian ăn hoa hồng.
Về vấn đề quốc tịch,
chính phủ quy định Hoa kiều thổ sinh có quyền lựa chọn trong một thời gian ngắn:
hoặc nhập Việt tịch, hoặc về Đài Loan.
Biện pháp này đã
gặp phản ứng mạnh mẽ từ phía người Tàu ở Đông Nam Á và ở Đài Loan. Một mặt, tại
quốc nội, Hoa kiều gây phong trào không khai báo cải tịch, rút tiền ký thác tại
các ngân hàng để làm cho đồng bạc Việt Nam sụt giá trên thị trường, mặt khác Singapore
và Hồng Kông tẩy chay hàng Việt Nam làm cho hàng vạn tấn gạo đã chở tới nơi
cũng còn bị từ chối bốc lên. Về phía Đài Loan, chính phủ Tưởng Giới Thạch đã tạo
ra tình trạng bang giao căng thẳng và vận động cả với Mỹ can thiệp. Trước những
phản ứng mạnh mẽ ấy, chính phủ Sài Gòn đành phải dùng phương cách mềm dẻo là
“thi hành các đạo dụ trên một cách linh động”.
Rốt cuộc, tình
trạng chung xét ra cũng chẳng có gì thay đổi ngoài việc Hoa kiều thổ sinh phải
đi lấy thêm một căn cước Việt Nam. Trên thực tế, họ vẫn là Tàu, và tập thể Tàu ở
xứ này vẫn kiểm soát nền kinh tế trong xứ. Tổng thống Ngô Đình Diệm, người đã
đưa ra những biện pháp mạnh trên, rốt cuộc về sau cũng rơi vào sự cám dỗ của một
tổ chức Tàu và đã phải chạy trốn vào một cơ sở của người Tàu ở Chợ Lớn trong vụ
đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963.
Về nỗ lực đồng
hoá, dường như không những không tiến bộ mà còn bị ảnh hưởng ngược lại. Trong
những năm chiến tranh, tập thể Tàu đã lợi dụng cơ hội làm giàu nhanh chóng một
cách bất chính. Vì vậy tập thể này đã tập thể này đã thu hút tất cả những phần
tử có hơi hướng Tàu, đến nỗi nhiều người Minh Hương đã Việt hoá từ lâu nay cũng
tìm cách tập nói, tập sinh hoạt để trở lại nhận họ Tàu. Tệ hại hơn nữa, nhiều
người Nùng từ Bắc Việt di cư xuống, không có liên hệ gì Tàu, nay cũng tìm cách
gia nhập xã hội Chợ Lớn để dần dần tự biến thành Tàu hẳn.
Cái gì đã hấp dẫn
mạnh mẽ họ như vậy? Chính là những mối lợi được đưa lại từ những hoạt động đen
của tập thể, những hoạt động có xếp vào loại Mafia tưởng cũng không có gì quá
đáng. Để che giấu những hoạt động ấy, người Tàu đã không ngại vãi tiền ra làm một
hàng rào an toàn. Nạn hối lộ đang bành trướng ở nhiều nước Đông Nam Á đã bắt
nguồn phần lớn từ sự vung tiền mua chuộc của người Tàu. Nhận một chức vụ cai trị,
dù lớn dù nhỏ, không cần đòi hỏi cũng lập tức được người Tàu ở địa phương tự động
dâng nạp những quà tặng đáng giá, nhiều khi quá sự mơ ước của người nhận. Sau
đó sẽ là những khoản “thuế riêng” định kỳ được đóng một cách đều đặn, kín đáo
dưới nhiều hình thức. Đổi lại, người Tàu chỉ cần chức quyền làm ngơ cho những
hoạt động bất chính của họ trong việc kiếm tiền. Tình trạng này rất là phổ biến
và đã làm suy yếu các quốc gia có cơ cấu chính quyền non nớt hoặc đang trải qua
thời kỳ nhiễu nhương chưa ổn cố. Tại Phi trước đây cả hai đảng Tự Do và Quốc
Gia đều hoạt động bằng tiền của người Tàu, vì vậy dù đảng nào thắng thế thì người
Tàu cũng đã mua trước được chính quyền[ix]. Ngày nay người Tàu ít nhắm vào các tổ chức chính trị
(trừ Mã Lai Á và Singapore) nhưng vẫn luôn luôn bỏ tiền ra mua các “nhân vật” địa
phương.
Do những sự kiện
trên, người ta có thể thấy một cách rõ rệt là muốn giải quyết vấn đề Tàu, ngoài
một chính sách thực tiễn hữu hiệu, được thi hành đúng đắn, vừa nhằm phá tan ảnh
hưởng trục Singapore – Hồng Kông đối với nền kinh tế bản xứ, vừa giải tán được
tập thể Hoa kiều trong nước bằng đồng hoá, chính quyền mỗi quốc gia còn cần phải
tự lành mạnh hoá mình trước. Còn có những công chức, cán bộ lén lút nhận tiền hối
lộ thì vấn đề Tàu sẽ vẫn còn nguyên vẹn đó.
Đối với Hoa kiều,
chỉ có hai con đường lựa chọn: hoặc là trở về Hoa Lục hay Đài Loan, hoặc là chấp
nhận tự đồng hoá với địa phương. Đồng hoá với địa phương, họ vẫn có thể dùng vốn
và khả năng của mình để sinh nhai một cách đúng đắn và đồng thời góp phần vào sự
phát triển xứ sở đã nuôi dưỡng họ, nhiều khi chính là quê mẹ của họ. (Tưởng
cũng nên ghi nhận điều đáng ca ngợi về một số ít người Tàu hoặc lai Tàu đã trở thành
công dân mới của trú xứ một cách gương mẫu và đã nỗ lực phụng sự tổ quốc mới với
tất cả lòng chân thành của mình, bất chấp sự cám dỗ của tập thể). Còn nếu Hoa
kiều vẫn sinh hoạt một cách đen tối với tập thể riêng như hiện tại, thì sự thù
nghịch với người bản xứ sẽ chỉ càng tăng thêm và tất sẽ không thể tránh được những
hậu quả đáng tiếc sau này.
Dự Kế Thống
Trị
Những điều trình
bày trên về Hoa kiều thật ra là mới chỉ xét tới một vài khía cạnh. Điều nguy hiểm
khác là đương nhiên họ sẽ trở thành một đầu cầu vững chắc cho cây cầu xâm lược
được bắc từ Trung Quốc sang trong tương lai [x]. Cái sự thực đáng ngại ấy đã lồ lộ hiện ra từ hàng chục
năm nay qua nhiều diễn biến mà nếu phân tích kỹ chúng ta sẽ thấy những mối liên
hệ thật là rõ ràng. Nếu có điều chưa được sáng tỏ thì chỉ là ở chỗ phương cách
cuối cùng Trung Quốc sẽ thi hành để khống chế Đông Nam Á. Vì, ngày nay người ta
có thể có trăm phương ngàn kế để khuynh đảo một quốc gia, chứ không nhất thiết
phải sử dụng trực tiếp quân đội như những thế kỷ trước.
Đối với Hoa kiều,
cả hai chính phủ Trung Hoa đã cùng can thiệp mạnh mẽ với các chính phủ liên hệ
(tuỳ nước có quan hệ ngoại giao) để giảm bớt các biện pháp có thể nguy hại đến
quyền lợi (bất chính) của tập thể này tại các nước. Trong việc can thiệp, Đài Bắc
biết thế yếu của mình nên ít lớn lối, còn Bắc Kinh, ngay từ khi mới thanh toán
xong Hoa Lục, đã đe doạ “chúng tôi quyết không tha thứ cho bất cứ hành động bất
công hay sỉ nhục đồng bào của chúng tôi ở ngoại quốc!”[xi] Ngay
trong chương trình hành động của Đảng Cộng Sản (mùa thu 1949) cũng có nhấn rõ
“Chính Phủ Nhân Dân Trung Ương của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc sẽ làm hết sức
mình để bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của kiều bào ở hải ngoại”[xii]. Dĩ nhiên, hình dung từ “hợp pháp” phải
được hiểu theo nghĩa của người Tàu.
Và, cũng với hành động “hợp pháp”, một nước Tàu nhỏ
đã thành hình trong lòng Đông Nam Á để sẵn sàng trở thành quân tiền phong ghi
chiến tích đầu tiên trong cuộc bành trướng của người Hán ở nơi này. Thật vậy,
ngày nay không ai còn có thể nghi ngờ việc Singapore đã trở thành một nước Tàu
nhỏ, nhưng ngay từ 1960, dự kế Trung Hoa hoá ấy đã được vạch rõ trong cương
lĩnh của ban chấp hành trung ương đảng Nhân Dân Hành Động (đảng hiện cầm quyền
do Lý Quang Diệu làm thủ lãnh) “Toàn thể sức mạnh và áp lực của người Trung Hoa
trên thế giới hãy sửa soạn ủng hộ cho một Singapore của Trung Hoa”[xiii]. Muốn thông cảm nỗi đau nhục của người
dân Mã trong vụ này, chúng ta hãy tưởng tượng nếu Sài Gòn tách ra khỏi quốc gia
Việt Nam và trở thành một nước Tàu nhỏ có tên là “Tây Cống” chẳng hạn!
Trên thực tế, Singapore mới chỉ tách ra khỏi Mã Lai
Á và trở thành một nước Tàu nhỏ từ năm năm nay. Nhưng đối với Bắc Kinh, mảnh đất
này đã được coi như đất Trung Quốc từ lâu rồi. Muốn hiểu rõ vấn đề này và đồng
thời cả dự kế bành trướng của Cộng Sản Tàu, chúng tôi xin nhắc lại sự phân chia
thời kỳ cách mạng của họ trước đã. Lịch sử cách mạng hiện đại ở Trung Quốc được
chia ra làm ba thời kỳ:
1. thời kỳ cách mạng dân chủ cũ từ
nha phiến chiến tranh 1840 tới Ngũ Tứ vận động 1919,
2. thời kỳ cách mạng dân chủ mới từ
Ngũ Tứ vận động tới ngày thành lập chế độ Cộng Hoà Nhân Dân 1949,
3. thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa từ
1949 tới nay và còn đang tiếp diễn.
Theo sự giải thích của Cộng Sản Tàu, trong thời kỳ
cách mạng dân chủ cũ, các đế quốc đã châu vào xâu xé Trung Quốc và chiếm mất
nhiều đất đai. Chính quyền thời đó vì hèn yếu đã không giữ nổi nên phải nhượng
đất qua các hiệp ước bất bình đẳng. Nay, trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ
nghĩa, nhân dân Trung Quốc sẽ lần lượt xé bỏ tất cả các hiệp ước kia và giải
phóng những lãnh thổ còn lại trong tay đế quốc. Lập luận ấy đối với chúng ta
không có gì đáng nói vì đó là chuyện riêng của Tàu. Điều đáng nói là Tàu đã
mang danh nghĩa chống đế quốc để trù tính hành động đế quốc hơn bằng cách ghép
luôn những nước nhỏ bé chung quanh vào lãnh thổ Tàu và đưa dự kế thống trị qua
mỹ từ “giải phóng”.
Khu vực Đông Nam Á được hân hạnh coi như là lãnh thổ
Trung Quốc, kể tới năm 1840, gồm có: Miến Điện, Thái Lan, Việt Nam, Lào,
Kampuchea, bán đảo Mã Lai, Singapore và chuỗi đảo Sulu (Phi-Líp-Pin). Những
vùng đất này vừa được mô tả, vừa được vẽ vào bản đồ đính kèm trong cuốn Tân
Trung Quốc Sử Lược, một tài liệu ấn hành lần đầu tiên vào năm 1952 (và đã được
tái bản nhiều lần) dành để huấn luyện thanh thiếu niên Cộng Sản Trung Hoa nhằm
nung nấu tinh thần quốc gia quá khích và đồng thời ý đồ xâm lược [xiv].
Trong tập sử lược, Tàu đã ghi đất An Nam bị
Pháp cướp mất của Trung Quốc từ năm 1885, đất Miến Điện cũng lọt vào tay Anh
năm 1886, còn Thái Lan tức Xiêm do Anh Pháp cùng kiểm soát và Anh Pháp đã đỡ đầu
xứ này để tuyên cáo độc lập (nghĩa là tách ra khỏi Trung Quốc) từ 1904.
Ông cha chúng ta, như ai nấy đều biết, từ sau ngày
trút ách nô lệ 1.000 năm qua trận Bạch Đằng năm 938, đã không khi nào còn chấp
nhận nền đô hộ của Tàu nữa. Việc triều cống sau này chẳng qua chỉ là một hình
thức ngoại giao phải có để tránh nạn binh đao. Nhưng nếu nạn binh đao không thể
tránh do hành động xâm lược của Tàu thì nhân dân Việt đều nhất tề chống lại và
lần nào cũng đánh bại kẻ địch. Phần đất An Nam của Trung Quốc trong thế kỷ 19
chỉ có thể hiện hữu trong trí tưởng tượng của người Tàu mà thôi.
Trường hợp Miến và Thái thì lại càng kỳ lạ hơn nữa
vì hai nước này chưa hề bị Tàu đô hộ và không bị văn hoá Tàu ảnh hưởng sâu đậm
như Việt Nam. Tại Miến Điện, dưới triều đại Konbaungset, nhà Thanh đã bốn lần
đem quân xâm lược nhưng cả bốn lần đều bị thảm bại, kết quả đưa đến hoà ước
1769 trên căn bản hoàn toàn bình đẳng giữa hai nước. Do đó việc ghép đất Thái
Miến vào lãnh thổ cũ của Trung Quốc là một hành động thật đáng nực cười [xv].
Vạch một biên giới như vậy rồi, Tàu sẽ làm gì để thực
hiện ý đồ ấy? Như trên đã nói, chúng ta khó mà tiên liệu mọi điều, nhưng đại
khái, chúng ta có thể thấy vốn liếng mà Tàu đã sẵn có trong vùng gồm:
1.
tập thể Hoa kiều sống ở các nước,
2.
căn cứ Singapore, và
3. các đảng Cộng Sản tay sai.
Về các đảng Cộng Sản, hiện nay Tàu đang cố gắng
tranh với Nga vai trò chỉ đạo ở khắp nơi. Tổ chức Cộng Sản thân Nga ở Miến Điện
đang bị Cộng Sản thân Tàu nỗ lực loại trừ. Cộng Sản Phi bị Tàu chi phối dần và
đang hình thành lực lượng mới được gọi là Tân Dân Quân để thay thế lực lượng
Huk cũ. Cộng Sản Thái vốn vẫn lệ thuộc Tàu. Cộng Sản Lào đã để Tàu mở thông cửa
hậu bằng con đường chiến lược mới nối từ Hoa Nam tới sông Mékong cận biên Đông
Bắc Thái. Cộng Sản Kampuchea từ trong tình trạng thoi thóp đã được phục sinh với
sự lãnh đạo của Cộng Sản Việt Nam sau ngày Sihanouk bị lật đổ, và hiện đang đứng
chung với lực lượng Sihanouk trong vòng ảnh hưởng của Tàu. Cộng Sản Việt có
khuynh hướng thiên Nga nhưng áp lực Tàu trong nội bộ đảng cũng còn khá mạnh,
làm cho Hà Nội không dễ mà bung ra được.
Với số vốn trên, Tàu còn có thể thúc đẩy chiến tranh
khuynh đảo ở một vài nước khi cần. Nếu cộng sản thắng, quốc gia nạn nhân sẽ
đương nhiên bị Tàu chi phối. Nếu cộng sản bị tiêu diệt hoặc thất bại phải rút
vào rừng núi trở lại, Tàu cũng vẫn còn nhiều ngòi khác để mà châm, nhiều địa hạt
khác để mà can thiệp: vấn đề Singapore, Mã Lai Á trong việc tranh chấp giữa tập
thể Tàu và tập thể Mã gốc, vấn đề Hoa kiều ở các quốc gia còn lại, vấn đề biên
giới Miến, Lào, Việt, vấn đề các hải đảo Nam Hải (Hoàng Sa, Trường Sa). Bất cứ
vấn đề nào, Tàu cũng có thể dùng làm đầu mối tạo khủng hoảng mới ở Đông Nam Á.
Về biên giới tại Miến Điện, sau những cuộc đụng độ
giữa Tàu và Miến trong thời kỳ 54-60, tình trạng đã được dàn xếp tạm nhưng hiện
chính phủ Newin cũng không còn kiểm soát nổi; đặc biệt là khu vực biên giới thuộc
tiểu bang Shan của Miến dành để cho người Tàu tự do qua lại. Nếu Miến quyết tâm
đóng cửa hoàn toàn thì khủng hoảng tức khắc sẽ lại xảy ra. Biên giới Lào và Việt
thì hiện đều nằm trong vòng kiểm soát của cộng sản nên chưa trở thành vấn đề. Mấy
năm trước đây, Bắc Kinh đã tuyên bố “tiền phương phòng thủ của Trung Quốc là Bắc
Việt, nếu Bắc Việt bị xâm lăng, nhất định Trung Quốc sẽ không để yên”. Tuyên bố
như vậy, Bắc Kinh đã nhằm cảnh cáo Mỹ, nhưng đồng thời cũng nhằm cảnh cáo chính
Bắc Việt, một xứ Cộng Sản Đông Nam Á, nếu có mưu toan thoát ra ngoài vòng kiểm
soát của Tàu thì cũng chẳng khác nào một xứ Đông Âu trong liên minh Varsovie
mưu toan thoát ra ngoài vòng kiểm soát của Nga Sô. Nếu Nga Sô đã dùng võ lực với
Hung, với Tiệp, thì có ai dám quả quyết Tàu sẽ không dùng võ lực với Bắc Việt,
nhưng Bắc Việt có muốn vuột ra khỏi sự chi phối của Tàu cũng còn là một điều
quá khó khăn.
Về các quần đảo ở Nam Hải, hiện nay cả Bắc Kinh lẫn Đài
Bắc đều nhảy vào xác nhận chủ quyền Trung Hoa trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa của Việt Nam. Trung Cộng đã chiếm đóng và thiết dựng các cơ sở khí tượng,
truyền tin, và đã khai thác phốt phát trên hai đảo lớn Boisé và Lincoln trong
quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam; còn Đài Loan thì đem thuỷ quân lục chiến
và người nhái đồn trú thường trực trên đảo Itu-Aba trong quần đảo Trường Sa thuộc
tỉnh Phước Tuy [xvi].
Chính từ các vụ quần đảo Nam Hải, chúng ta lại càng
thấy rằng Tàu nào cũng chỉ là Tàu. Đối với người Trung Hoa, dù quốc gia hay cộng
sản, thì ý đồ bành trướng xuống Đông Nam Á cũng đều được nuôi dưỡng như nhau.
Ngay như trong cuộc nội chiến ở Trung Hoa trước đây, nếu Tưởng Giới Thạch có thắng
cộng và làm chủ Hoa Lục thì các nước Đông Nam Á tất cũng phải đương đầu với Quốc
Dân Đảng như đã phải đương đầu với cộng sản vậy. Lúc ấy hình thức tay sai ở địa
phương sẽ không phải là các đảng Cộng Sản, mà sẽ là các tổ chức mang danh nghĩa
khác.
Lịch sử cách mạng Việt Nam hãy còn mang một vết nhơ
khó mà tẩy sạch là hành động bám đuôi Quốc Dân Đảng Tàu trong thời kỳ chấm dứt
thế chiến II. Những thành phần bám đuôi có thể là vì thiếu lập trường dân tộc vững
chắc, lầm tưởng Quốc Dân Đảng Tàu là cứu tinh của Việt, nên đã hành động như vậy.
Chính hành động ấy đã đẩy phần lớn thanh niên Việt vào tay CS, một thế hệ thanh
niên còn hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa cộng sản, nhưng lại rất quen thuộc với
mưu toan thống trị của Tàu, ít ra là qua kinh nghiệm lịch sử đã học được ở nhà
trường.
Sau này, nếu có việc Tàu trực tiếp can thiệp vào
Đông Nam Á, thì giữa các phe tranh chấp trong nội bộ mỗi nước, phe nào đứng về
phía Tàu, phe ấy sẽ thảm bại. Lịch sử Việt Nam đã chứng tỏ điều đó và với tình
trạng Đông Nam Á, phóng đại kinh nghiệm Việt Nam ra toàn vùng ở trường hợp này
là điều chắc chắn có thể chấp nhận được.
[i] Một
nhân vật Indonesia cũng đã từng tuyên bố: “Với chúng tôi, mối hiểm nguy chính
là người Tàu. Bất kể là đỏ hay vàng, Tàu nào cũng là Tàu.” (For us, the menace is the Chinese. It does not matter
whether red or yellow, but it is the Chinese.) Manila
Bulletin số ngày 14 tháng 2 năm 1964.
[ii] Trong The
World Today, (Royal Institute of International Affairs, 1963), giáo sư
C. P. Fitzgerald đã đề cập đến tư tưởng đế quốc truyền thống của Trung Hoa và
cho rằng sở dĩ người Hán giữ mãi tư tưởng ấy, vì họ luôn luôn tự coi là tổ hợp
văn minh duy nhất. Đối với những tổ hợp chung quanh Trunh Quốc, nếu đã có lần
tiếp nhận ánh sáng văn minh (nghĩa là đã từng bị người Hán cai trị) thì đương
nhiên sẽ mãi mãi là của người Hán, không còn lý do gì lại còn thuộc bọn “man
di” nữa. Nếu có lỡ mất quyền kiểm soát, thì người Hán phải tìm cách thâu đoạt lại
ngay khi có cơ hội. Sự bành trướng của đế quốc Trung Hoa trên ba nghìn năm đã
được xây dựng trên nguyên tắc ấy. Các dân tộc “man di” bị Hán tộc đánh thắng sẽ
dần dần bị đồng hoá thành Trung Hoa qua những cuộc thiên cư tràn ngập của người
Hán.
[iii] Trích
“Báo cáo chính trị (của Mao Trạch Đông) tại Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc lần thứ
7 của Đảng CS Trung Quốc” ngày 24 tháng 4 năm 1945. (Mao Trạch Đông Tuyển Tập,
tập III, bản dịch Việt ngữ, Sự Thật, Hà Nội, 1960, trang 421, 422).
[iv] Văn
thư tối mật do Bộ Ngoại Giao Mỹ công bố ngày 3 tháng 10 năm 1971 tại Hoa Thịnh
Đốn (theo tin AP, ngày 3 tháng 10 năm 1972, Hoa Thịnh Đốn.
[v] Tạp
chí Novesti Mongolii phát hành từ Mông Cổ số tháng 8 năm 1972
(theo tin AP ngày 4 tháng 9 năm 1972, Budapest.)
[vi] Riêng
tại Việt Nam, trong một ngàn năm đô hộ (111 trưóc C.N. – 939 sau C.N.) người
Tàu đã không di dân lập nghiệp. Có lẽ phần vì miền Nam nước Tàu chiếm được Bách
Việt còn rộng bao la mà dân Tàu hồi ấy còn tương đối ít, phần vì đất Giao Chỉ
là miền hẻo lánh xa xôi, khí hậu lại nóng ẩm không mấy thích hợp với người Tàu.
Dầu sao Trung Hoa cũng đã cố đồng hoá người Việt bằng văn hoá như tiêu diệt chữ
Việt, bắt học chữ Tàu, rập theo phong tục tập quán Tàu… nhưng rốt cuộc người Việt
vẫn là người Việt và cuối cùng lại dành được chủ quyền. Tinh thần đề kháng mãnh
liệt ấy đã làm ngạc nhiên các sử gia thế giới. Trong cuốn The Smaller Dragon
(Praeger, New York, 1958), tác giả Joseph Buttinger đã cho là một phép lạ
(miracle), khó mà giải thích nổi.
[vii] Theo Ping Ti Ho trong Studies On The
Population Of China, 1368-1953 (Harvard University Press, Cambridge,
1959) dân số Tàu đã phát triển như sau: 1393: 65 triệu, 1600: 150 triệu, 1700:
250 triệu, 1779: 275 triệu, 1794: 313 triệu, 1850: 430 triệu, 1953: 583 triệu.
Theo thống kê chính thức của Bắc Kinh: 1957: 647 triệu, 1966: 760 triệu. Và sau
cùng theo ước tính hiện nay người ta đưa con số phỏng định từ 750 đến 850 triệu
dân số Tàu (The 1972 World Almanac And Book Of Facts, trang 45.) Với mức
độ gia tăng từ 1,5% đến 2% mỗi năm, dân số Trung Hoa sẽ đạt tới một tỷ trong một
thời gian không lâu nữa.
[viii] Theo
thống kê chính thức của chính phủ miền Nam Việt Nam, năm 1955 tổng số Hoa kiều
là 703.120. Con số này bị các chuyên viên về Hoa kiều cho là quá thấp so với thực
tế vì chính phủ không kiểm soát được hết.
[x] Tại
Phi, một nhà ngoại giao đã nói Tàu cộng chỉ cần đổ bộ lên Luson 200 sĩ quan là
họ sẽ có ngay một đạo quân 200.000 người (Manila Times số ngày 26
tháng 8 năm 1958.) Nghe đâu thành phần thực sự cộng sản trong số Hoa kiều chỉ
có chừng 10% (theo tướng Vargas ước định trong Manila Times số
ngày 19 tháng 3 năm 1958) nhưng hầu hết thanh niên Tàu đều sẵn sàng nghe theo
tiếng gọi của chính quốc trong mọi hành động thù nghịch với trú xứ khi có dịp.
[xii] Bài New China’s Foreign Policy của Ko Pai-nien
trong China Digest số ngày 2 tháng 11 năm 1949.
[xiv] Năm 1960, một sinh viên Ấn tên là Ghanshyam
Mehta du học ở Bắc Kinh đã lấy được một ấn bản cuốn sử lược trên và đã công bố ở
Ấn Độ sau khi hồi hương năm 1962. Tờ Sự Thật (Pravda) của Nga cũng đã vạch trần
ý đồ bành trướng của Tàu qua bản đồ trong số ngày 2 tháng 9 năm 1964.
Theo cuốn sử lược
này, ngoài vùng đất Đông Nam Á nói trên, các phần đất Trung Quốc đã mất và sẽ
phải tranh đoạt lại còn có:
– Đông và Đông Bắc: quần đảo Lưu Cầu (Nhật), Cao Ly,
đảo Sakhalin (Nga) và vùng đất của Nga phía Đông Bắc Mãn Châu.
– Vùng Hy Mã Lạp Sơn: tất cả lãnh thổ ba nưóc Népal,
Bhutan, Sikkim và một phần lãnh thổ Ấn.
– Tây và Tây Bắc: phần lãnh thổ Nga ở giáp Tân
Cương, toàn thể Ngoại Mông (Cộng Hoà Nhân Dân Mông Cổ), không kể Tây Tạng đã bị
Trung Cộng chiếm hoàn toàn.
Năm 1960, nhóm sinh viên Népal ở Trung Cộng đã trình
cuốn sử lược cho thủ tướng Népal để báo nguy trong dịp ông này viếng Bắc Kinh.
Do đó, Népal đã cảnh giác và lánh ra dần khỏi vòng ảnh hưởng của Trung Cộng.
[xv] Trường
hợp các nước nhỏ ở vùng Hy Mã Lạp Sơn cũng vậy. Ngay từ 1939, Mao Trạch Đông đã
tuyên bố Népal và Bhutan là đất Trung Hoa bị đế quốc ăn cướp mất qua những hiệp
ước bất bình đẳng. Còn Sikkim thì mãi đến 1954 mới được ghi vào bản đồ Trung
Hoa và chú thích là phần lãnh thổ Trung Hoa bị Anh chiếm đóng từ 1889. Trên thực
tế, Népal trước kia là một nước độc lập cũng ở trong tình trạng phải triều cống
Trung Hoa như Việt Nam (định kỳ 5 năm vào cuối thế kỷ 19), còn Bhutan và Sikkim
thì không có liên hệ gì với Trung Quốc cả.
[xvi] Vì
ở trong tình trạng chiến tranh, chính phủ Sài Gòn chỉ phản kháng khơi khơi bằng
văn thư và những lời tuyên bố; chính phủ Hà Nội thì hoàn toàn im lặng, phần vì
mặc nhiên coi là vùng lãnh thổ dưới vĩ tuyến 17, phần vì mắc kẹt với vụ chiếm
đóng của Trung Cộng.
Xem toàn bộ Trăm
Việt Trên Vùng Định Mệnh trong dạng ebook: http://kesach.org/archives/1025
Phạm
Việt Châu – Tên thật là Phạm Đức Lợi. Sinh năm 1932
tại làng Hiếu Thiện, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, miền Bắc VN.
Di cư vào Nam sau hiệp định Genève. Năm 1954, động
viên vào khóa 5 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Thông thạo các ngôn ngữ Anh, Pháp, Nhật,
Trung-Hoa và từng là Giáo Sư Anh Ngữ tại trường Sinh Ngữ Quân Đội (Cây Mai). Đã
đóng góp rất nhiều trong việc soạn thảo tập tài liệu song ngữ Giải Đoán Không Ảnh
và đã được tưởng thưởng Lục Quân Bội Tinh của Hoa Kỳ trong những công tác ấy. Từng
là nhân viên nòng cốt trong ban Liên Hợp Quân Sự 4 bên và là trưởng phái đoàn
VNCH đầu tiên ra Hà Nội năm 1972 để thi hành hiệp định Paris. Chức vụ cuối cùng
trong QLVNCH là Trung Tá Trưởng Ban Nghiên Cứu Chiến Lược – Khối Tình Báo –
Phòng Nhì Bộ Tổng Tham Mưu.
Các bút hiệu đã dùng: Mạc Ly-Châu, Phạm
Chi-Lăng, Phạm Việt-Châu.
Các tác phẩm văn chương đã xuất bản: Tự Do (thơ), Loạn
và Máu (kịch), Giông Tố Đêm Giao Thừa (kịch), Lộng
Gió (tiểu thuyết), Diễm (tiểu thuyết), Nắng Tắt
Trên Làng Mai (tiểu thuyết). Các tác phẩm biên khảo viết chung cùng một
số tác giả khác: Tìm Hiểu Thơ Tự Do (tập I, II và III), Tìm
Hiểu Thi Ca Miền Núi.
Các tác phẩm chưa xuất bản: Dạ Lan Hương (thơ), Quân
Lực Cộng Sản VN (biên khảo hợp soạn cùng Ban Nghiên Cứu Chiến Lược Bộ
TTM, 1975).
Trăm Việt Trên Vùng Định Mệnh đã
đăng trên tạp chí Bách Khoa từ 1969-1974.
Đã từng cộng tác với các báo: Bách Khoa, Phụng Sự,
Quân Đội, và nhật báo Chính Luận.
Sau khi CSBV chiếm miền Nam VN, tác giả đã tuẫn tiết
tại tư gia ngày 5-5-1975.