Ông Nguyễn Phú Trọng, 72 tuổi, thuộc phe thân Bắc
Kinh, đã giành được chức vụ lãnh đạo một lần nữa sau khi đánh bại Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng.
Thế là cuộc
tranh giành quyền lực trong giới lãnh đạo chóp bu tại Việt Nam đã kết thúc:
Trương Tấn Sang, Nguyễn Sinh Hùng và Nguyễn Tấn Dũng về hưu, Nguyễn Phú Trọng
được lưu nhiệm để làm Tổng Bí thư thêm một nhiệm kỳ hoặc nửa nhiệm kỳ nữa với
lý do là để giữ sự “ổn định” trong guồng máy lãnh đạo đảng.
Điều này làm
giới quan sát Việt Nam cũng như quốc tế khá ngạc nhiên. Từ một, hai năm gần
đây, hầu như người nào cũng tiên đoán chiếc ghế tổng bí thư ấy sẽ lọt vào tay
của Nguyễn Tấn Dũng, người được cho là có thế lực nhất trong Ban Chấp hành
Trung ương đảng.
Không những
ngạc nhiên, nhiều người còn luyến tiếc. Trên các diễn đàn mạng, số lượng những
người thiên vị Nguyễn Tấn Dũng nhiều hơn hẳn những người khác. Người ta ca ngợi
Nguyễn Tấn Dũng là thực tế, thực dụng, cấp tiến, thân Mỹ và Tây phương, có tính
cách mạnh mẽ, do đó, có hy vọng thay đổi tình hình chính trị tại Việt Nam.
Nhiều người còn vẽ lên một bức tranh xán lạn: Nguyễn Tấn Dũng sẽ hợp nhất chiếc
ghế tổng bí thư với chiếc ghế chủ tịch nước để tạo nên một guồng máy lãnh đạo
giống như Trung cộng, hoặc lạc quan hơn hơn, giống hình thức tổng thống chế ở Tây
phương.
Với ý nghĩ
như thế, người ta đâm ra thất vọng và hụt hẫng khi biết người chiến thắng trong
cuộc giành giật chiếc ghế tổng bí thư lại là Nguyễn Phú Trọng.
Xin lưu ý là
từ mấy năm nay trong những trận đối đầu công khai giữa Nguyễn Tấn Dũng và
Nguyễn Phú Trọng, hầu như lúc nào Nguyễn Tấn Dũng cũng thắng. Năm 2012, trong
Hội nghị thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương đảng đã bác bỏ đề nghị kỷ luật Nguyễn
Tấn Dũng của Nguyễn Phú Trọng. Năm 2013, trong Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp
hành Trung ương lại bác bỏ đề nghị đưa Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ vào Bộ
Chính trị của Nguyễn Phú Trọng; ngược lại, hai người được bầu, Nguyễn Thiện
Nhân và Nguyễn Thị Kim Ngân được cho là những người thân cận với Nguyễn Tấn
Dũng.
Vậy mà, hiện
nay, trong cuộc tranh chấp quan trọng và quyết định nhất đối với sự nghiệp của
Nguyễn Tấn Dũng, ông lại bị Nguyễn Phú Trọng đánh bại.
Một câu hỏi
không thể không được đặt ra: Tại sao Bộ Chính trị cũng như Ban Chấp hành Trung
ương đảng lại chọn lựa Nguyễn Phú Trọng thay vì Nguyễn Tấn Dũng?
Ai cũng biết
Nguyễn Phú Trọng là người bảo thủ, giáo điều và tuyệt đối không sắc sảo. Sự
thiếu sắc sảo ấy khiến Nguyễn Phú Trọng, một mặt, sau 5 năm nắm giữ chức vụ cao
nhất trong đảng, chưa bao giờ có một chính sách, hay thậm chí, một câu nói nào
để lại ấn tượng sâu trong lòng quần chúng; mặt khác, bị dân chúng khinh bỉ,
hoặc, nhẹ nhàng hơn, coi thường, xem là “lú”. Tính chất bảo thủ và giáo điều
làm cho Nguyễn Phú Trọng, một mặt, xa rời thực tế và mù loà trước những xu thế
vận động của lịch sử thế giới; mặt khác, ít nhiều ngả về phía Trung cộng với
cái ảo tưởng là cả hai đều có một lý tưởng chung: chủ nghĩa cộng sản.
Chính ba đặc
điểm, bảo thủ, giáo điều và thiếu sắc sảo ấy của Nguyễn Phú Trọng làm cho dân
chúng nói chung dễ có khuynh hướng ủng hộ Nguyễn Tấn Dũng. Người ta thừa biết
Nguyễn Tấn Dũng tham nhũng, lợi dụng chức quyền để đưa con cái vào guồng máy
cai trị cũng như làm giàu một cách bất thường. Tuy nhiên, người ta vẫn tin, với
Nguyễn Tấn Dũng, đất nước còn có chút hy vọng thoát khỏi ảnh hưởng của Trung cộng.
Với Nguyễn Phú Trọng thì không. Tuyệt đối không.
Vậy tại sao
Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương đảng lại chọn Nguyễn Phú Trọng?
Lý do chính,
theo tôi, là: Người ta sợ sự sắc sảo. Những người thông minh sắc sảo bao giờ
cũng có những phản ứng và những chính sách bất khả đoán đối với những người tầm
thường. Điều này giải thích tại sao trong mấy kỳ đại hội đảng vừa qua, bao giờ
người ta cũng bầu những người bình bình nhàn nhạt lên chiếc ghế tổng bí thư.
Hết Đỗ Mười (1991-97) đến Lê Khả Phiêu (1997-2001), Nông Đức Mạnh (2001-2011)
và từ Đại hội XI đến nay là Nguyễn Phú Trọng.
Tâm lý sợ sự
sắc sảo ấy gắn liền với một tâm lý khác: sợ sự thay đổi. Người ta biết chắc
Nguyễn Phú Trọng không phải là một lãnh tụ tài giỏi nhưng ít nhất dưới sự lãnh
đạo của ông sẽ không có gì thay đổi cả. Không thay đổi trong thể chế chính trị.
Không thay đổi trong quan hệ với Trung cộng. Và, đặc biệt, quan trọng nhất,
không có gì thay đổi trong bộ máy quyền lực của đảng cũng như những quyền lợi
mà các uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đang có.
Tâm lý này
phù hợp với một trong những mục tiêu chính Ban Chấp hành Trung ương đảng nêu ra
trong nhiệm kỳ tới: “giữ vững môi trường hoà bình, ổn định”. Nói đến “hoà
bình”, người ta chủ yếu nhắm đến quan hệ với Trung cộng; nói đến “ổn định”,
người ta nhắm đến sinh hoạt chính trị đối nội: không có thay đổi gì mới trong
cơ chế cũng như trong cấu trúc quyền lực trong nội bộ đảng.
Tâm lý sợ
thay đổi ấy đi ngược hẳn lại xu hướng chung của lịch sử và niềm tin chung của
mọi người. Việt Nam đang là nước yếu, yếu về cả kinh tế lẫn chính trị; điều
Việt Nam cần nhất, do đó, không phải là giữ nguyên trạng mà phải thay đổi để
tiến bộ. Sự quyết định của Ban Chấp hành Trung ương, khi coi sự “ổn định” là
tiêu chí quan trọng nhất để chọn lựa người lãnh đạo là một quyết định hoàn toàn
sai lầm. Năm ngoái, bà Phạm Chi Lan, một chuyên gia kinh tế tại Việt Nam, có
một nhận xét rất hay về tình trạng Việt Nam hiện nay: “Trên thế giới chia ra
gồm nước phát triển, nước đang phát triển, nước chậm phát triển nhưng Việt Nam
có lẽ là mô hình đặc biệt nhất. Đó là nước… không chịu phát triển!”
Đất nước
không chịu phát triển. Chỉ có quyền thế và quyền lợi của giới lãnh đạo là…phát
triển vượt bậc.
Nguyễn Hưng
Quốc