Những thủ đoạn làm ăn phát sợ của Tàu cộng
Tàu cộng
không dùng tiền của mình làm hại đối tác, mà họ dùng ngay tiền của của đối tác
làm công cụ trừng phạt đối tác. Thậm chí họ còn kiếm lợi…
Ngày 18/7/2013, Trung tâm Nghiên cứu Các vấn đề xã hội, thái độ và xu hướng dư
luận xã hội toàn cầu của Mỹ (PEW), đã công bố kết quả khảo sát tại 38 quốc gia
trên toàn thế giới về thái độ đối với Trung cộng. Trong đó có tới 26/38 nước,
người dân không thích cách làm ăn của Trung cộng. Họ cho rằng Trung cộng chỉ
xem trong lợi ích của mình mà quên, mà xem nhẹ lợi ích của đối tác.
Tại một số quốc gia,
số người dân không xem Trung Hoa cộng sản là đối tác tin cậy chiếm tỷ lệ rất
cao như tại Nhật Bản (89%), Hàn Quốc (79%), Úc (79%), Tây Ban Nha (85%), Ý
(83%), Pháp (83%), Anh (82%), Israel (79%), Jordan (71%), Thổ Nhĩ Kỳ (68%), Hoa
Kỳ (60%), Kenya (77%), Nigeria (70%), Nam Phi (67%), Senegal (62%), Argentina
(71%) và Chile (65%).
Đặc biệt, Trung cộng
là đối tác thương mại lớn nhất của Ba Tây nhưng lại có tới hơn một nửa số người
Ba Tây được hỏi (51%) không thích cách làm ăn của Trung cộng. Và qua những con
số đó đã lý giải tại sao người Tàu cộng lo lắng về hình ảnh của họ đang ngày
càng xấu đi ở nước ngoài.
Chủ tịch Trung cộng
Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Khắc Cường – những lãnh đạo có nhiệm vụ làm thay
đổi hình ảnh của Trung Hoa cộng sản trong cộng đồng quốc tế. Ảnh: EPA.
Qua khảo sát của PEW
với người dân Tàu cộng thì 56% người dân nước này được hỏi cho rằng, đất nước
của họ nên được tôn trọng hơn. Tuy nhiên, mong muốn là như vậy nhưng người Tàu
cộng ra làm ăn ở nước ngoài lại không hướng tới việc thay đổi hình ảnh của họ
mà thậm chí còn làm xấu hơn với những cách thức làm ăn không minh bạch của
mình.
Trong số những thủ thuật, thủ đoạn mà
Trung cộng thực hiện ở nước ngoài có việc tạo những “cơn sốt mơ hồ” nhưng cực
nóng trên thị trường. Đây là một trong những thủ đoạn hết sức nguy hiểm,
với những chiêu trò có thể gây ra nhiều nguy hại rất lớn cho đối tác mà đích
hướng tới là làm cho đối tác suy yếu và kiệt quệ.
Những hàng hóa đặc
biệt
Tại một số quốc gia
được xem là bạn hàng của Trung cộng, trong đó có Việt Nam, cứ thỉnh thoảng lại
lên cơn sốt về việc một loại sản phẩm nào đó với nhu cầu và giá cả tăng đột
biến, vượt quá sức tưởng tượng của người cung ứng. Đặc biệt những mặt hàng ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế của nước sở tại càng lớn bao nhiêu thì mức độ
sốt càng dữ dội bấy nhiêu. Có những sản phẩm đang được trao đổi, mua bán rất
bình thường bỗng dưng dự luận đưa lên thành những loại hàng hóa đặc biệt, giá
cả tăng lên theo cấp số nhân, thị trường liên tục nóng bởi nhu cầu liên tục gia
tăng. Và loại hàng hóa này còn đặc biệt ở cả cách mua cách bán, cách tiếp cận
và kiểm tra hàng hóa.
Có những mặt hàng vốn
là những thứ hết sức thông thường và không bao giờ người ta nghĩ nó có thể trở thành
hàng hóa, bỗng dưng có những đơn đặt hàng với những yêu cầu đặc biệt và giá cả
bất ngờ. Dư luận xôn xao, cơ quan quản lý nhà nước không thể can thiệp và nền
kinh tế có nguy cơ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Nhưng tại sao lại có
hiện tượng bất thường ấy thì từ các chuyên gia nghiên cứu về các lĩnh vực kinh
tế tìm hiểu nhu cầu đến chuyên gia về kỹ thuật tìm hiểu về giá trị sử dụng,
thậm chí cả chuyên gia trong lĩnh vực y khoa nghiên cứu về công dụng của sản
phẩm, hàng hóa, tất cả đều bó tay, không thể lý giải được.
Người có nhu cầu có
thường không xuất hiện, mà chủ yếu là qua bộ phận trung gian tìm hiểu thị
trường và bộ phận thu gom – thương lái. Và qua những lực lượng này thì dư luận
chỉ có được những thông tin hết sức mơ hồ về mục đích mua bán và công dụng sản
phẩm.
Doanh nhân Tàu cộng –
lực lượng góp phần làm xấu hình ảnh Trung cộng trên thế giới. Ảnh: Bloomberg.
Song chỉ biết rằng
thị trường trong thời kỳ những “cơn sốt mơ hồ” hoành hành thì vô cùng nóng. Với
những sản phẩm dạng tư liệu sản xuất thì nó nóng còn hơn là mua bản quyền sáng
chế hay bí mật gia truyền của những mặt hàng đang hút như “cơm ăn nước uống”
hàng ngày. Còn với những mặt hàng tiêu dùng thì nó nóng như việc mua bán sản
phẩm “cải lão hoàn đồng”.
Và cứ như thế, thị
trường nghiêng ngả theo những bí mật của người mua mà không bao giờ được bật
mí. Thậm chí, đến khi kết thúc những cơn sốt hay loại hàng hóa đó không còn
được mua bán nữa thì thông tin về mục đích, công dụng của nó vẫn nằm trong màn
bí mật. Song có lẽ người bán cũng chẳng quan tâm tới những bí mật đó, chỉ cần
bán được hàng với giá cao.
Tuy nhiên, thực ra đằng sau những cơn
sốt ấy là những kế hoạch được vẽ ra một cách bài bản và cực kỳ thâm sâu, mà mục
tiêu của nó là móc túi những đối tác trực tiếp, còn mục đích là làm thiệt hại
cho cả một nền kinh tế với những cơn sốt hết sức mơ hồ ấy, theo
Forbes Asia ngày 24/9/2014.
Người ta mua lá mãng
cầu non, người ta mua râu bắp ngô non hay người ta mua móng trâu, lá vải, đỉa…
để làm gì thì không ai biết được, hiểu được. Y khoa với những công cụ hỗ trợ
lâm sàng kỹ thuật cao cũng không thể tìm ra đâu là những hàm lượng tố chất, hợp
chất có thể tạo nên những loại dinh dưỡng hay biệt dược mà công dụng của nó có
thể làm tăng sức lực cho con người.
Tuy nhiên, có một
điều ai cũng nhận ra ngay đó là sự chuyển đổi mục đích các hoạt động kinh tế
diễn ra một cách tự nhiên nhưng rất nguy hiểm. Đó là người trồng mãng cầu không
phải để lấy quả mà chỉ để lấy lá non, người ta trồng ngô không phải để lấy lương
thực phục vụ cho sản xuất và chăn nuôi mà chỉ để lấy râu non bán.
Và thế là hai hiệu
ứng xấu với nền kinh tế xảy ra. Thứ nhất, các kế hoạch kinh tế vĩ mô bị phá vỡ,
thị trường sản phẩm thiếu hụt và nguy cơ xảy ra hàng lọat những hợp đồng kinh
tế có bị vi phạm và phải bồi thường. Doanh nghiệp lao đao và mất uy tín. Nền
kinh tế mất đi sức hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, đời sống
kinh tế – xã hội bị xáo trộn khi cơn sốt đang ở mức cao trào và bị đảo lộn khi
cơn sốt hạ nhiệt và chấm dứt. Mà cụ thể là tâm lý lo âu và chờ đợi của những
nhà cung ứng không chuyên nghiệp cho một nhu cầu tự phát bất thường.
Lo âu là không biết
nhu cầu tiếp theo là mặt hàng nào. Và chờ đợi những cơn sốt trong tương
lai.
Hậu quả là một nền
sản xuất sẽ bị thu hẹp – người ta không biết sản xuất sản phẩm gì, trồng cây
gì, nuôi con gì – thậm chí người ta không tập trung nhiều vào sản xuất bởi
nguồn lợi từ hoạt động thương mại trong thời kỳ của những “cơn sốt mơ hồ” làm
cho người sản xuất, nhà sản xuất giảm động lực – sức mạnh kinh tế nội lực cũng
từ đó mà suy giảm.
Người mua cũng là
người bán
Các quốc gia trên thế
giới cho rằng, Trung cộng sử dụng tiềm lực của một nền kinh tế lớn mà thực hiện
những chính sách làm suy yếu những nền kinh tế nhỏ, không ngang bằng trong quan
hệ kinh tế với họ. Người dân các nước trên thế giới cho rằng người Tàu cộng
dùng tiền để phá hoại kinh tế đất nước họ, làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của
họ.
Nếu sự việc diễn ra
đúng như vậy thì vẫn còn may mắn. Song Trung cộng không sử dụng nguồn lực vào
việc triệt hạ đối thủ, Tàu cộng không dùng tiền của mình làm hại đối tác, mà họ
dùng ngay tiền của của đối tác làm công cụ trừng phạt đối tác. Thậm chí họ còn
kiếm lợi trên những hoạt động ấy – ngoài những tác động xấu đến kinh tế – xã
hội của nước sở tại.
Thương lái Tàu cộng
thường tìm mua những thứ lạ đời, ảnh: Phuninh.gov.vn.
“Có ba giai đoạn để hiểu về chính sách của Trung cộng
đối với việc giải quyết bất cứ vấn đề gì là: Tuyên bố về ý định, thiết kế chính
sách và thực hiện chính sách.
Nhưng điều quan trọng cần phải nhớ và luôn luôn phải nhớ, với Trung cộng thì
giá trị của vấn đề chỉ nằm ở giai đoạn cuối cùng của vấn đề – thực hiện”, Forbes Asia bình luận.
Thủ thuật mà người Tàu
cộng thực hiện là đóng vai cả người mua và người bán chỉ trong một nghiệp vụ
kinh tế phát sinh. Và đây chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân làm nên sự
bí mật không bao giờ được bật mí – nguyên nhân tạo nên những “cơn sốt mơ hồ”.
Khi biết điều này thì
người ta mới hiểu rằng người mua sản phẩm không quan tâm đến công dụng của nó.
Bắt đầu là việc tạo dư luận về nhu cầu rất lớn, rất gấp về một sản phẩm nào đó khởi nguồn cho hoạt động cung – cầu. Tiếp theo là dùng một khoản tài chính rất nhỏ (khoản này sau đó sẽ được thu về hết) tiếp sức cho ít nhất 3 đối tác là lực lượng trung gian – thương lái. Tạm gọi là đối tác A, đối tác B và đối tác C.
Chủ hàng Trung Quốc sẽ đưa thời hạn giao hàng khác nhau cho 3 đối tác theo thứ tự A, B, C với nguyên tắc, đối tác được đặt hàng trước tiên thì giao cuối cùng, đối tác được đặt hàng cuối cùng thì giao trước tiên. Và động thái tiếp theo là hối thúc C giao hàng. Vì đã tính toán nên chủ hàng biết C không thể có hàng để giao đúng thời hạn và có nguy cơ phải bồi thường.
Lúc này người mua “trong bóng tối” thông qua lực lượng trung gian khác – tiếp thị – thông tin về khả năng cung ứng hàng hóa của đối tác B cho C biết. Do B chưa tới thời hạn giao hàng nên sẽ bán cho C, còn C sợ bồi thường nên phải mua giá cao để giao trót lọt lô hàng đầu tiên. Thế là B bán hàng cho C mà quên rằng, người mua đã tính toán là B sẽ lại có nguy cơ như C.
Và B sẽ mua hàng của A tương tự như C mua lại của B vậy. Đến lượt A cũng thế, nhưng phải mua từ chính chủ hàng. Thế là A, B, C cứ chạy lòng vòng theo sự điều khiển của chủ hàng Tàu cộng với sức ép về thời gian giao hàng, số lượng hàng hóa và giá cả hàng hóa theo hướng có lợi cho họ và đưa đối tác vào chân tường với sự lựa chọn “vớt vát được đồng nào hay đồng đó”.
Khi chủ hàng thấy nguy cơ bại lộ và mục đích cũng đã đạt được thì mọi việc chấm dứt một cách đột ngột và hậu quả là hàng kho sản phẩm không có người mua. Thiệt hại vô cùng lớn cho người sản xuất và tầng nấc trung gian. Kinh tế – xã hội cũng vì vậy mà có những hỗn loạn với những hiện tượng nợ nần, phá sản.
Theo người viết thì
có thể trong số liệu về xuất cảng của hải quan các cảng tại Việt Nam có lẽ
không có số liệu về những mặt hàng đặc biệt này được xuất qua Trung cộng hoặc
nếu có thì cũng mang tính chiếu lệ. Nó sẽ ít hơn rất rất nhiều số lượng sản
phẩm được cung ứng bởi những đối tác và thực ra có thể nó vẫn nằm tại Việt Nam,
nhưng không còn ai quan tâm tới nữa.
Hiện tượng giá gỗ sưa tăng đột biến gấp hàng chục lần chỉ sau vài tháng hay hàng ngàn tấn rễ gỗ trắc tồn kho tại Việt Nam, không được thương nhân Tàu cộng cho xuất vào năm 2007 – 2008…cũng có phần nguyên nhân bởi chiêu thức chủ hàng Tàu cộng đóng vai cả người mua và người bán.
Hiện tượng giá gỗ sưa tăng đột biến gấp hàng chục lần chỉ sau vài tháng hay hàng ngàn tấn rễ gỗ trắc tồn kho tại Việt Nam, không được thương nhân Tàu cộng cho xuất vào năm 2007 – 2008…cũng có phần nguyên nhân bởi chiêu thức chủ hàng Tàu cộng đóng vai cả người mua và người bán.
Sau một thời gian nguôi ngoai thì lại có một cơn sốt về một mặt hàng nào đó mà không ai biết trước, lường trước được. Song có nhiều người ở nhiều quốc gia vẫn ngả nghiêng theo những cơn sốt mơ hồ ấy mà hậu quả luôn là mất tiền mất của, mất cả sức lực và niềm tin.
Vì vậy, có người cho rằng có thể sắp tới sẽ có một cơn sốt về xe gắn máy Trung cộng đã qua sử dụng hay hàng giá rẻ của Trung cộng đã qua sử dụng tại Việt Nam và các quốc gia trên thế giới với chiêu thức mua giá cao và bán giá rất cao. Hậu quả là tiền của người Việt Nam và người dân các quốc gia khác trên thế giới sẽ chảy vào túi thương nhân Tàu cộng.
Có một điều rất lợi hại là những mặt hàng mà Tàu cộng hướng vào gây nên những cơn sốt mơ hồ ở nước ngoài hầu hết không phải là những mặt hàng quốc cấm hay bị giới hạn mua bán, trao đổi. Do vậy, họ vô tư thực hiện chiêu thức của mình mà không sợ bị cơ quan thực thi pháp luật nước sở tại “sờ gáy” hay ngăn cản.
Có thể thấy rằng, Trung cộng có thể sử dụng bất cứ công cụ nào, ở bất cứ tầng nấc nào, với bất cứ lĩnh vực nào trong quan hệ đối ngoại, nhằm mục tiêu làm suy yếu đối tác, khiến đối tác phụ thuộc, lệ thuộc vào mình, từ đó điều khiển đối tác phục vụ cho ý đồ thống trị của họ, theo The Guardian.
Trung cộng chỉ sử dụng những công cụ sức mạnh để thực hiện tấn công trực diện nhưng chiến thắng thì chưa thể khẳng định, còn với những trở lực tiềm tàng, Trung cộng sử dụng những công cụ mềm song rất nguy hiểm, làm suy yếu đối phương bằng những đòn tấn công âm thầm mà khi bị hạ “nốc ao” (knock-out) người ta mới nhận ra kẻ thù chính là những người bạn hàng quen thuộc.