(Viết cho những người một ra đi thề không
trở lại)
Nguyễn Thanh Hoàng
Khởi đi từ một ngày 30-4-1975 đau thương...
Những năm tháng đầu của cuộc đời tị nạn, chúng ta không ngừng những nỗ lực tích cực dấn thân đấu tranh chống bạo quyền Hà Nội xâm lăng cưỡng chiếm miền Nam, với hoài bão sẽ có một ngày quang phục. Ngoài các sinh hoạt chính trị như tổ chức biểu tình chống Việt Cộng chà đạp nhân quyền, vận động với chính quyền sở tại để được tổ chức lễ thượng kỳ hằng năm trước tòa đô chính của thành phố, chúng ta còn tổ chức các buổi trình diễn văn nghệ hát cho quê hương. Các ca nhạc sĩ Nguyệt Ánh, Khánh Ly, Phạm Duy được mời đến thành phố này để trình bày những sáng tác ca khúc mới, giữ cho ngọn lửa đấu tranh đừng nguội lạnh trong tim người tị nạn trong khi họ còn đang phải chật vật thích ứng với cuộc sống đầy khó khăn nơi xứ lạ.
Nguyệt Ánh với Một Lần Đi
và Anh Vẫn Mơ Một Ngày Về
rót giọt đắng cay cho thân phận mất nước và căm hận giặc Cộng
đã cướp mất quê hương thân yêu.
rót giọt đắng cay cho thân phận mất nước và căm hận giặc Cộng
đã cướp mất quê hương thân yêu.
Saigon ơi… ta có ngờ đâu rằng…
Một lần đi… là một lần vĩnh biệt…
Một lần đi… là mòn lối quay về…
Một lần đi… là mãi mãi thương đau..
Tháng 11 năm
1975, Nam Lộc vừa rời khỏi trại tị nạn Pendleton, với cõi lòng còn tê điếng
niềm đau ly hương đã xuất thần sáng tác bài Saigon Ơi Vĩnh Biệt; và nó
đã trở thành một nhạc phẩm bất hủ mãi cho đến ngày nay. Khánh Ly cất tiếng hát:
Saigon ơi… tôi xin hứa rằng tôi trở
về…
Người tình ơi… anh xin giữ trọn mãi
lời thề…
Dù thời gian… có là một thoáng đam mê…
Phố phường vạn ánh sao đêm…
Nhưng tôi vẫn không bao giờ quên…
Dù thời gian… có là một thoáng đam mê…
Phố phường vạn ánh sao đêm…
Nhưng tôi vẫn không bao giờ quên…
Lúc bấy giờ, với niềm đau còn nóng
hổi trong lòng ngực, hầu như bất cứ người tị nạn nào cũng xem đó như chính là
lời từ cửa miệng mình thốt ra. Nam Lộc thốt ra lời giản dị đó bằng giai điệu
nhạc khiến cho nó trở nên bi thương xúc động hơn.
Bài Người Di Tản Buồn Nam Lộc viết sau đó cũng trở thành một kinh tụng gối đầu giường của nhiều người tị nạn ở hải ngoại hay tị nạn trên chính quê hương Việt Nam.
Cho tôi xin một lần chào …
Chào bao nhiêu người đã khuất…
Xin cho tôi một mộ phần...
Bên ngàn chiến hữu của tôi…
Ba năm sau, Việt Dzũng tung ra nhạc
phẩm Một Chút Quà Cho Quê Hương đánh thêm một cú vang dội thứ hai trong
trái tim thổn thức của cộng đồng người Việt tị nạn. Nước mắt thành dòng trên má
kẻ lưu vong và cũng lặng lẽ tuôn bên chiếc radio nghe lén hằng đêm ở quê nhà.
Giọng ca khàn đục đầy ma lực của Khánh Ly hát lần đầu tiên năm sau đó thiết tha
quá và chất chứa đầy những nỗi xót xa:
Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá…
Anh đốt cuộc đời cháy mòn trên ngón
tay…
Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may…
Mẹ may hộ con tim gan quá đọa đầy...
Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may…
Mẹ may hộ con tim gan quá đọa đầy...
Cũng trong thời gian này, Phạm Duy
từ Fort Walton Beach, Florida dọn về Thị Trấn Giữa Đàng (Midway City) giữa lòng
thủ đô Little Saigon và viết ra Tị Nạn Ca gồm những ca khúc tuyên ngôn như Tháng
Tư Đen, Quê Hương Ruồng Bỏ Giống Nòi Khinh, 54 Cha Bỏ Quê 75 Con Bỏ Nước,
v.v. bi hùng thiết tha, tưởng chừng như có thể ôm mối hận Cộng sản mãi mãi
nghìn đời. Tháng Tư Đen. Xin cúi đầu tưởng niệm. Khóc quê hương đang rên siết
dưới ách giặc Cộng bạo cường. Thề không quên ngày quốc hận.
… Này người Việt ở trên thế giới!...
Nào cùng nhau họp chung khí giới…
Cất tiếng đòi tự do… cho triệu đồng bào ta…
Hãy đoàn kết lại!
Cuối năm
1977, khi người tị nạn trong đợt di tản đầu tiên cảm thấy đường về lại quê
hương còn quá xa xăm, bài thơ Khi Tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra Biển của Du Tử
Lê được phổ biến và được hưởng ứng nồng nhiệt. Bài thơ đi thẳng vào tim gan
người nghe, gây xúc động chất ngất, nhất là những người có tuổi hay suy tưởng
về cái chết. Cuộc sống tự do, dư thừa cơm áo, nhà cao cửa rộng, xe ngựa thênh
thang, tất cả những thứ ấy không làm cho người ta vơi được nỗi buồn xa quê
hương. Trong khi đó, nhà cầm quyền Cộng sản trong nước vẫn còn loay quay lúng
túng trong cuộc quản trị một đất nước bỗng chốc tăng đôi lãnh thổ và dân số.
Quản trị lãnh thổ và tài sản quốc
gia đồ sộ đã khó, quản trị mấy chục triệu dân miền Nam đã có hơn hai mươi năm
phát triển tự do dân chủ và tiến bộ lại càng khó hơn. Và cộng sản đã chọn con
đường dùng bạo lực đàn áp và triệt tiêu ý chí người thua trận. Cả đất nước đắm
chìm trong lưới sắt tối tăm cô lập với thế giới bên ngoài. Người ở lại tuyệt
vọng dõi mắt trông chờ người thân đã ra đi. Người ra đi cũng tuyệt vọng tưởng
chừng như không bao giờ có ngày trở về.
Trong bối cảnh đó và thời điểm đó,
người ta nghe bài thơ KTCHĐTRB trong thổn thức ngậm ngùi. Khi được Ngô Văn Tín
phổ thành nhạc, bài thơ như có thêm mười thần công lực chắp cánh bay vút và
xoáy thẳng vào tâm thức người nghe vốn vẫn chưa hết bàng hoàng bởi cơn địa chấn
Tháng Tư Đen.
Khi tôi chết… hãy đem tôi ra biển…
Đời lưu vong… không cả một ngôi mồ…
Vùi đất lạ… thịt xương e khó rã…
Hồn không đi… sao trở lại quê nhà…
Khi tôi chết… hãy đem tôi ra biển…
Và nhớ đừng… vội vuốt mắt cho tôi…
Cho tôi hướng… vọng quê tôi lần
cuối…
Biết đâu chừng… xác tôi chẳng đến
nơi…
Khi tôi chết… nỗi buồn kia cũng hết…
Đời lưu vong… tận tuyệt với linh
hồn…
Nhưng đời lưu vong thời đổi mới trở
thành ra chưa tận tuyệt với linh hồn. Rồi Cộng sản thay đổi đường lối quản trị
đất nước để tận dụng và khai thác tối đa nguồn tài lực tiềm ẩn trong nước và
dồi dào của tập thể người Việt ngoài nước. Nhà cầm quyền Hà Nội mở rộng vòng
tay chào đón Việt kiều mang về cho họ nguồn ngoại tệ lớn lao. Nỗi nhớ nhà của
những người con tha hương lớn hơn mọi lý tưởng. Người ra đi trở về, chấp nhận
mọi điều trái tai chướng mắt, chấp nhận tuân hành theo luật pháp không minh
bạch của Cộng sản. Người tị nạn với lòng dạ xốn xang thổn thức những năm đầu
nay lần lượt vui mừng hớn hở trở về thăm lại quê hương, bỗng nhận thấy bài hát
ấy không còn gây cảm giác nổi gai cột sống nữa.
Và họ lục đục trở về, nhiều lắm, trong số đó có cả các tác giả của Tháng Tư Đen, của KTCHĐTRB... Nhưng thôi, chúng ta trách móc họ cũng chẳng ích gì. Bởi vì họ đã quên những điều họ viết, quên những tâm niệm đã từng ôm ấp một thời trong cuộc đời tị nạn của họ, thì chúng ta cũng chẳng cần nhớ đến họ để khỏi bận lòng.
Chữ “chúng ta” được dùng ở
đây là để chỉ những người Việt tị nạn thầm lặng, không chấp nhận sống chung với
Cộng sản. Khi họ thốt lên câu “ Saigon ơi vĩnh biệt!”, khi họ tự nhận
mình là “Người Di Tản Buồn”, khi họ đã gọi ngày mất nước là "Ngày
Quốc Hận”, khi họ ước nguyện “khi tôi chết hãy đem tôi ra biển”, họ
cương quyết sẽ giữ lời bằng danh dự. Họ thề sống ngoài quê hương ngày nào
quê hương còn Cộng sản. Một khi đã chết, họ ước ao thân xác hoặc tro cốt
được trở về đất mẹ, được chôn cất bên cạnh phần mộ người thân hay đồng đội,
được hưởng nghi lễ tống táng như một tử sĩ đền xong nợ nước.
Khi Tôi Chết Đừng Đưa Tôi Ra
Biển
(của cựu Trung Tá TQLC Nguyễn Văn
Phán)
Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Lao Bảo, Khe Sanh
Để đêm nghe vang dội khúc quân hành
Ôi ! Lính chiến một thời kiêu hãnh quá.
Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Ben-Hét, Đắc-Tô
Nơi bạn bè tôi, xây mộng sông hồ
Nguyện trấn giữ dãy Trường Sơn yêu quý.
Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Bình Giả, Chiến Khu “D”
Cho hồn tôi siêu thoát với lời thề
Thân chiến sĩ, nguyện xin đền nợ nước.
Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Đưa tôi về Cái Nước, Đầm Dơi
Đêm U Minh, nghe tiếng thét vang trời
Mừng chiến thắng để dâng về tổ quốc.
Khi tôi chết, đừng đưa tôi ra biển
Trả tôi về với dân tộc Việt Nam
Gói thân tôi ba sọc đỏ màu vàng
Xin liệm kín với hồn thiêng sông núi.
Và đa số
chúng ta, những người con của một tổ quốc không cờ máu, cũng thà chết lưu vong
còn hơn là trở về nhìn quê hương thân yêu đang bị tàn phá bởi kẻ cướp Cộng sản
gian manh quỉ quyệt. Từ ba mươi lăm năm nay, chúng ta vững lòng âm thầm theo
đuổi lý tưởng một cách kiên trì không suy suyển. Chúng ta không về vì chúng ta
không muốn chối bỏ căn cước tị nạn chính trị, lý do nguyên thủy của sự bỏ nước
ra đi. Về làm gì để chứng kiến cảnh nhân phẩm bị chà đạp, bất công xã hội đầy
dẫy tràn lan, thiểu số thống trị cười cợt trên nỗi lầm than của đại chúng. Về
làm gì để bị đối xử thiếu văn minh và lễ độ. Về làm gì để bị làm đối tượng của
rình rập theo dõi, tống tiền và âm mưu ám hại. Về làm gì khi sự an toàn bản
thân không được bảo vệ bởi luật pháp. Về làm gì để nhìn thấy lá cờ máu ngự trị
khắp quê hương, hình tượng kẻ tội đồ ngang nhiên trưng bày chung với các đấng
chí tôn và anh hùng dân tộc. Chúng ta tự hào và hãnh diện với thái độ và
sự lựa chọn của chúng ta.
Đã từng nghe tiếng hô to: “Quì xuống
các Sinh Viên Sĩ Quan! Đứng dậy các Tân Sĩ Quan!”, đã từng hét vang lời thề:
"Xin thề!" tại Vũ Đình Trường trong buổi lễ mãn khóa ngày nào, đã
từng đội trên đầu chiếc mũ kết với huy hiệu “Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm”,
đã từng bị cộng sản bức hại trả thù dã man cá nhân và gia đình chúng ta, đã
từng chịu cảnh nước mất nhà tan, chúng ta làm sao có thể trở về cơ chứ?
Chúng không ngừng tìm đủ mọi cách
bóc lột đàn áp người dân trong nước và lợi dụng “khúc ruột ngàn dặm” mang chất
xám và tài nguyên về nuôi béo chúng. Ít ra chúng ta không để bị phĩnh gạt một
lần nữa và không tủi thẹn với chính lương tâm của mình.
Một lần đi là một lần vĩnh biệt, trừ phi Cộng sản không còn trên quê hương.
Một đồng đội thuở xưa vừa liên lạc
Nhắc lại ngày trận mạc có bên nhau
Hỏi tôi biết có ngày nao
Tôi về thăm lại chiến hào nắng mưa?
Bạn tôi nhắc quê hương ngày tháng
cũ
Kỷ niệm xưa ấp ủ vẫn chưa nhòa
Quê hương nào có đâu xa
Quê hương ngay ở hồn ta dạt dào.
Xa quê hương đâu phải là cách trở
Nói làm chi chuyện ở với chuyện
về
Không về không phải bội thề
Không về nhưng vẫn một bề yêu quê.
Thôi bạn nhé quê hương ta tìm lại
Hồi tưởng hoài cho hết kiếp nhân
sinh
Không về đâu phải vô tình
Cần chi ai biết chỉ mình ta hay.
Nguyễn Thanh Hoàng.
Ghi chú: Các hình ảnh minh họa lấy từ mạng lưới toàn cầu.