(25.02.2016)
Cựu Bộ trưởng Úc
kêu gọi đưa tàu chiến thách thức Trung cộng ở Biển Đông
Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Úc Kevin Andrews (Ảnh: News)
Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Úc Kevin Andrews ngày 25/2 đã kêu gọi chính
phủ của Thủ tướng Malcolm Turnbull điều tàu chiến vào vùng 12 hải lý quanh các
đảo nhân tạo do Trung cộng xây dựng trái phép ở Biển Đông, sau khi Úc công bố bạch
thư quốc phòng với trọng tâm là phát triển hải quân.
“Chúng ta phải thực thi quyền tự do hàng hải
và phải chuẩn bị các biện pháp để đưa tàu hải quân và phi cơ tới khu vực đó, và
cũng phải nói rằng chúng ta muốn các tuyến thương mại thương mại không bị cản
trở trong khu vực này”, ông Andrews nói.
Ông cho biết
thêm kế hoạch đó nên bao gồm việc đưa các tàu chiến vào vùng 12 hải lý quanh
đảo nhân tạo do Bắc Kinh bồi đắp phi pháp ở Biển Đông.
“Cần làm điều đó nếu là cần thiết, vì chúng
ta thường nói rằng các đảo nhân tạo, vốn thường nằm dưới mực nước biển, không
tạo ra tuyên bố chủ quyền trong mọi trường hợp, nhưng trên thực tế Trung cộng
hiện đang khẳng định rằng đây là chủ quyền lãnh thổ của họ”.
“Trung cộng đang lợi dụng sự e ngại của Mỹ và
các đồng minh và nếu chúng ta tiếp tục rụt rè như vậy thì Trung cộng sẽ tiếp
tục hung hăng.
“Chúng ta tiếp tục thận trọng, còn phản ứng
từ Trung cộng thì sao? Bắc Kinh tiếp tục quân sự hóa cả Biển Đông lẫn Hoa Đông,
bất chấp Chủ tịch Tập Cận Bình nói ngược lại”, ông Andrews nói thêm.
Úc hôm nay
đã công bố bạch thư quốc phòng 2016, trong đó bao gồm các kế hoạch nhằm tăng
cường sức mạnh hải quân, với việc bổ sung các tàu ngầm và tàu chiến, trong nỗ
lực của một chiến lược tăng cường quân sự dài hạn nhằm duy trì hòa bình tại khu
vực châu Á-Thái Bình Dương.
Bạch thư
quốc phòng 2016 của Úc viết, chi tiêu quốc phòng Úc sẽ tăng lên 195 tỷ đô la Úc
(gần 140 tỷ USD) vào năm 2021-2022, cùng với một lực lượng quân sự lớn hơn, gồm
62.400 binh sĩ, lớn nhất trong 1/4 thế kỷ qua.
Úc cũng có
kế hoạch tăng gấp đôi quy mô của hạm đội tàu ngầm lên 12 chiếc, cũng như tăng
cường thêm 3 khu trục hạm, 9 tàu chiến chống hạm và 12 tàu tuần tra.
Lời kêu gọi
của ông Andrews diễn ra chỉ vài ngày sau khi Phó Đô đốc Joseph P Aucoin, Tư
lệnh Hạm đội 7 của Hải quân Mỹ, nói rằng sẽ rất “giá trị” nếu Hải quân Hoàng
gia Úc tiến hành các hoạt động tự do hàng hải ở Biển Đông.
Theo News
Cách Trung cộng
thách thức Mỹ
Mỗi lần các viên chức Mỹ - Trung cộng
gặp nhau hay có một sự kiện liên quan nào đó, Trung cộng lại "trêu
ngươi" Mỹ. Gần đây là dàn dựng phi đạn phòng không ở đảo Phú Lâm khi Tổng
thống Mỹ đang gặp các lãnh đạo ASEAN.
Ngoài việc dựng
dàn phi đạn phòng không và phi cơ chiến đấu ở Phú Lâm (thuộc quần đảo Hoàng Sa
của Việt Nam), Trung cộng còn xây dựng một loạt cơ sở quân sự phi pháp tại đây
– Ảnh: Stratfor.com
Năm năm
trước, khi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ lúc đó là Robert Gates đang ở thăm Bắc Kinh,
Trung cộng đã cho phi cơ chiến đấu tàng hình tuyệt mật của mình là J-20 lên
trời. Năm 2013, khi Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden đến Trung cộng, chiến hạm Trung
cộng “cắt đầu” chiến hạm Mỹ trên Biển Đông ở cự ly gần đến suýt tông nhau.
Đến mùa hè năm
ngoái, khi Tổng thống Mỹ Barack Obama đang thăm Alaska, nước này lần đầu tiên
đưa 5 chiếc tàu đến Biển Bering, nằm ngoài khơi bang Alaska của Mỹ. Còn hồi
tuần trước, Trung cộng dựng dàn hỏa tiễn phòng không HQ-9 đến đảo Phú Lâm của
Việt Nam trong khi Tổng thống Mỹ Barack Obama đang họp với các lãnh đạo ASEAN ở
California, trong đó các hành động phi pháp của Trung cộng ở Biển Đông là chủ
đề quan trọng trong chương trình nghị sự. Gần đây nhất, Ngũ Giác Đài cho biết
không quân Trung cộng đem chiến đấu cơ J-11
và JH-7 ra đảo Phú Lâm trong khi Ngoại trưởng Mỹ và Trung cộng đang bắt tay
nhau ở Washington.
Báo Time của
Mỹ ngày 24.2 nhận định rằng Trung cộng đang chơi trò thách đố Mỹ ở Biển Đông.
Time nhận
định, tham vọng của Trung cộng đã quá rõ: muốn chiếm đến 90% Biển Đông – tuyến
đường thương mại huyết mạch với giá trị giao dịch thương mại mỗi năm đi qua đây
trị giá đến 5 nghìn tỉ USD.
Hình ảnh chụp từ vệ tinh cho thấy Trung
cộng lắp đặt hệ thống radar cực mạnh trên Đá Châu Viên (thuộc quần đảo Trường
Sa của Việt Nam) – Ảnh: CSIS/Digital Globe
|
Tư lệnh Bộ
chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ, đô đốc Harry Harris lo lắng rằng sự cắt giảm
quy mô của quân đội Mỹ đang làm vụt khỏi tay ông các “món” đủ mạnh để chống lại
Trung cộng. Phát biểu trước Ủy ban quân vụ Thượng viện Mỹ hôm 23.2 vừa qua, ông
Harris nói rằng Hải quân Mỹ chỉ cung cấp cho ông được 62% lực lượng tuần tra
chống tàu ngầm cần thiết.
Đô đốc
Harris khẳng định: “Chuyện Trung cộng
muốn quân sự hóa Biển Đông thì đã chắc như thủ đô Washington xảy ra kẹt xe vậy”.
Và ông cảnh báo cần phải chuẩn bị cho tình huống chiến tranh với Trung cộng: “Tôi cần những loại vũ khí mạnh mẽ hơn có thể
đi nhanh hơn, xa hơn và bền hơn. Hiện tôi thấy ổn trong tình hình hiện nay
nhưng hôm nay không phải là chiến tranh. Tôi nghĩ đó là điều mấu chốt”.
Đô đốc cũng
kêu gọi các đồng minh của Mỹ trong khu vực thường xuyên tiến hành các hoạt động
cổ vũ cho tự do hàng hải gần các đảo mà Trung cộng chiếm đóng phi pháp, chứng
tỏ cho Trung cộng thấy rõ rằng họ không chấp nhận hành động của Trung cộng.
Phi Luật Tân: Sinh viên biểu tình đòi Trung cộng rút
khỏi Hoàng Sa và Trường Sa
Thanh Hà (RFI)
Sinh viên nhiều quốc gia biểu tình trước tòa đại sứ Trung cộng tại Manila, Phi Luật Tân, ngày 25/02/2016.REUTERS/Romeo Ranoco
Bản
tin của CNN, ngày 25/02/2016 cho biết có khoảng 100 sinh viên gồm nhiều quốc
tịch, trong đó có sinh viên Việt Nam biểu tình trước sứ quán Trung cộng tại Phi Luật Tân đòi Bắc Kinh chấm dứt các
hành vi xâm chiếm Biển Đông.
Theo phóng viên của
đài truyền hình Mỹ CNN tại Manila, cuộc tuần hành sáng nay do hiệp hội sinh
viên Việt Nam tại Phi Luật Tân cùng với phong trào
MARCHA khởi xướng. Cuộc biểu tình do cựu dân biểu Phi, Roilo Golez dẫn đầu.
MARCHA là một tổ chức được thành lập với tiêu chí « kháng cự trước các
hành vi xâm lấn của Trung cộng ».
Đoàn biểu tình kêu gọi
Việt Nam và Phi Luật Tân cùng hợp lực chống
lại việc Bắc Kinh quân sự hóa các vùng có tranh chấp tại Biển Đông. Ngoài
sinh viên Việt Nam, đoàn biểu tình còn có sinh viên từ Nam Dương, Cambốt, Đông
Timor, Miến Điện và Hàn Quốc.
Trước mắt, tòa Đại sứ Trung
cộng và bộ Ngoại Giao Phi từ chối bình luận về tin trên nhưng phát ngôn viên
của bộ Ngoại giao Phi, Charles Jose cho biết Biển Đông là đề tài được đề cập
đến tại cuộc họp giữa Ngoại trưởng 10 nước ASEAN mở ra trong hai ngày 26 và
27/02/2016 tại Viêng Chăn (Lào).
TC dồn sức mạnh
quân sự biến Biển Đông thành ao nhà
GS Alexander Vuving cảnh báo, nếu
các nước khác không có những bước đi mạnh mẽ ngay từ bây giờ, biển Đông sẽ bị TC
kiểm soát.
Giáo sư Alexander Vuving. Ảnh: VOV
Bài 1: Bàn
cờ biển Đông – kịch bản 2030
Bản báo cáo
mới nhất của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) của Mỹ hồi tháng
1/2016 cảnh báo đến năm 2030 Trung cộng (TC) có thể sở hữu nhiều tàu sân bay
đến mức sự hiện diện thường xuyên của các hạm đội hàng không mẫu hạm đủ biến
biển Đông gần như thành một “ao nhà” của TC. Trả lời phóng viên, GS. Alexander Vuving, Trung tâm Nghiên cứu
An ninh châu Á-Thái Bình Dương (Mỹ) cũng cho rằng nếu các nước khác không có những bước đi mạnh mẽ ngay từ bây giờ, trong tương lai Biển Đông sẽ bị Trung cộng kiểm soát.
Nếu các nước
không có bước đi mạnh mẽ…
Trong
khi Mỹ tuyên bố tái cân bằng tại châu Á và liên tục tiến hành nhiều hoạt động
tuần tra biển Đông, thậm chí tại các vùng Trung cộng đơn phương tuyên bố chủ
quyền thì CSIS nhận định khả năng Bắc Kinh vượt mặt Mỹ để kiểm soát biển Đông
là rất lớn. Ông đánh giá như thế nào về cảnh báo từ CSIS?
GS. Alexander Vuving: Báo cáo của
CSIS rất đáng chú ý và tôi không ngạc nhiên.Trong vòng 15 năm tới, TC hoàn toàn đủ sức đóng thêm 2-3 hàng không mẫu hạm nữa ngoài chiếc Liêu Ninh đã có. Vì TC đang tập
trung sức mạnh quân sự để kiểm soát vùng biển bên trong chuỗi đảo thứ nhất, tức
là khu vực Biển Đông và Biển Hoa Nam, nên đến năm 2030, việc TC có
1-2 hàng không mẫu hạm thường trực ở Biển Đông cũng không phải chuyện lạ.
Lúc đó, với các hàng không mẫu hạm này cộng thêm các căn cứ hải-không quân liên
hợp trên các đảo TC chiếm ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nếu các nước khác không có những bước đi mạnh mẽ ngay từ bây
giờ, biển Đông sẽ thành ao nhà của TC.
Bạch thư Quốc phòng TC thẳng thắng tuyên bố “Quân đội TC
(PLA) trong tương lai gần sẽ hoạt động vượt ra khỏi chuỗi đảo thứ nhất cũng như
tiến vào Ấn Độ Dương”. Tham vọng bá quyền trên biển của Trung cộng sẽ đe dọa
cán cân quyền lực của Mỹ tại khu vực biển Đông ra sao?
Tại khu vực Đông Á, TC có
lợi thế “sân nhà”. Trong khi Mỹ là cường quốc toàn cầu, chỉ có thể tập trung
khoảng 60% – 70% lực lượng vào châu Á thì TC là cường quốc khu vực,
có thể tập trung 100% ở đây. Do đó khi so sánh cán cân lực lượng, chỉ cần TC
đạt được 60% của Mỹ là họ đã có thể ngang ngửa với Mỹ ở khu vực rồi.
Riêng tại Biển Đông, TC có thể có một hàng
không mẫu hạm và hàng chục chiến đấu cơ thế hệ 4, cộng với nhiều tàu nổi, tàu
ngầm thường xuyên túc trực ở đây. Trong khi hiện nay trung bình mỗi ngày có một lượt
tàu của Mỹ tuần tra ở Biển Đông thì TC có cả chục lượt tàu.
Trong tương lai, TC có
xu hướng thu hẹp khoảng cách về sức mạnh cứng đối với Mỹ. Theo nghiên cứu của tôi (đã
công bố trên một số tạp chí và chuyên khảo) thì giai đoạn tăng trưởng cao của TC
sẽ chấm dứt trong vòng 5 năm tới. Sau đó khả năng TC lâm vào một cuộc khủng
hoảng tài chính, kinh tế, có thể kéo theo biến động chính trị là rất cao. Dù
vậy TC vẫn thu hẹp đáng kể khoảng cách về sức mạnh cứng với Mỹ.
Nếu lấy “GDP công nghệ cao”, tức
là phần GDP làm ra bởi các ngành công nghệ cao, làm chỉ số sức mạnh cứng, thì
vào năm 2010, sức mạnh cứng của TC bằngkhoảng 21% của Mỹ và khoảng 72% của
Nhật. Nhưng đến năm 2020, sức mạnh cứng của TC sẽ lên đến khoảng 44% của Mỹ và
khoảng 1,7 lần của Nhật. Đến năm 2030, sức mạnh cứng của TC có thể bằng 60% của
Mỹ và ba lần của Nhật. Trong trường hợp khủng hoảng ở TC kéo dài và
trầm trọng, GDP công nghệ cao của TC vào năm 2030 vẫn có thể vào khoảng 30-40%
của Mỹ, tức là trong mọi trường hợp thì khoảng cách về sức mạnh cứng giữa TC và
Mỹ vẫn thu hẹp hơn hiện nay.
Cán cân lực lượng về Mỹ, cán cân ý chí về TC
Có
người nhận định “chính quyền Obama đã không làm gì nhiều để ngăn chặn TC phá vỡ
nguyên trạng ở châu Á”. Ông đánh giá như thế nào về chiến lược “tái cân
bằng” của Mỹ tại châu Á-TBD nói chung và biển Đông nói riêng cho tới thời điểm
này?
Chiến lược “tái cân bằng” xuất phát từ sự nhận thức
của Mỹ về tầm quan trọng ngày càng cao của khu vực Đông Á, đặc biệt là Đông Nam
Á, với Biển Đông là bản lề. Thực lực của Mỹ còn nhiều
nhưng bị dàn trải và thiếu quyết tâm. Ukraine và Syria là hai trong số
các điểm nóng khiến Mỹ bị dàn trải. Nếu như cán cân lực lượng vẫn nghiêng về
phía Mỹ thì cán cân ý chí lại nghiêng về phía TC.
Tại
sao nhận thức được tầm quan trọng bản lề của biển Đông nhưng Mỹ vẫn để cán cân
ý chí nghiêng về phía Trung cộng?
Theo tôi có ba lý do khiến Mỹ thiếu quyết tâm. Một là,
Biển Đông ở xa nên khó được cảm nhận là lợi ích sống
còn của Mỹ. Chỉ khi nào TC gây hấn nghiêm trọng thì đa số người Mỹ mới
cảm nhận rõ ràng, còn nếu không thì việc thuyết phục công chúng và chính giới
Mỹ về tầm quan trọng của Biển Đông vẫn còn khó khăn.
Hai là, Mỹ lo ngại nếu đối đầu
với TC thì sẽ dẫn đến chiến tranh, mà chiến tranh giữa hai cường quốc có vũ khí
hạt nhân sẽ là sự huỷ diệt toàn cầu. Do đó Mỹ rất thận trọng không để
căng thẳng leo thang. Khi mà Mỹ đứng trước lựa chọn giữa hai con đường, một con
đường là cứng rắn nhưng có thể dẫn tới chiến tranh, và một con đường là mềm
mỏng và có thể mất ưu thế ở Biển Đông về tay TC thì có nhiều người ở Mỹ sẵn
sàng chọn con đường thứ hai.
Ba là, cá nhân Tổng thống
Obama thiên về mềm mỏng, hoà hoãn, đối thoại trong chính sách đối ngoại. Chính
sách này thích hợp với một số trường hợp nhưng sẽ là phản tác dụng với TC. TC
biết những điểm yếu này của Mỹ nên họ đã leo thang có tính toán và cho đến nay
thì họ đã thành công.
Năm
2016 Mỹ vào giai đoạn cuối cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, trong khi ông Obama dường
như vẫn còn quá nhiều vấn đề đối nội phải giải quyết. Liệu Mỹ có để TC “lấn
tới” vào cuối nhiệm kỳ Obama?
Tôi không nghĩ chính quyền Obama sẽ “nới lỏng” Biển
Đông trong năm cuối nhiệm kỳ. Nhưng tôi cũng không kỳ vọng nhiều vào sự “tái
cân bằng” lại chính chiến lược tái cân bằng trong năm cuối nhiệm kỳ này. Tuy
nhiên một sự kiện có thể dẫn đến thay đổi lớn là phán
quyết của Toà án quốc tế về Luật Biển trong năm nay về vụ kiện Philippines. Sự
kiện này có thể làm các nước thêm quyết tâm kháng cự lại sự leo thang của TC.
GS
Alexander Vuving cảnh báo ba “nước cờ” đến 2040 của TC
Chiến lược phát triển hải quân của TC mà CSIS nhắc lại
bao gồm ba giai đoạn.
Từ 2000 đến 2010, TC nhắm tới việc thiết lập sự kiểm
soát các vùng biển nằm trong chuỗi đảo thứ nhất nối liền từ Okinawa, Đài Loan
và Phi Luật Tân.
Từ 2010 đến 2020, TC tìm cách kiểm soát các vùng biển
nằm trong chuỗi đảo thứ hai, nối liền từ chuỗi đảo Ogasawara tới Guam và Nam
Dương.
Cuối cùng, từ 2020 đến 2040, TC muốn thay thế Mỹ thống
trị toàn bộ Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, sử dụng hàng không mẫu hạm làm chủ
lực để kiểm soát biển.
Tuy nhiên cho đến lúc này (giai đoạn thứ hai), mọi sự
vẫn chưa hề an bài để TC thiết lập ưu thế áp đảo trong chuỗi đảo thứ nhất. Tôi
nghĩ TC chưa thể kiểm soát vùng biển bên trong chuỗi đảo thứ hai nếu họ chưa kiểm
soát được vùng biển bên trong chuỗi đảo thứ nhất. Để giành sự kiểm soát ở đây,
TC thực hiện chiến lược lấn chiếm từng bước trong vùng xám, tức là gây nên khủng
hoảng và căng thẳng nhưng không để dẫn đến đụng độ vũ trang. Đó chính là cách họ
đã làm khi cắt cáp tàu Việt Nam năm 2011, chiếm bãi Scarborough của Phi năm
2012, đưa giàn khoan HD-981 vào khoan trong vùng biển Việt Nam năm 2014, và xây
đảo nhân tạo tại quần đảo Trường Sa từ 2013 đến nay, cũng như liên tục đâm, cướp
tàu cá của Việt Nam từ nhiều năm nay.
Các đảo mà TC chiếm ở Hoàng Sa và Trường Sa sẽ tạo
cơ sở hậu cần và hạ tầng để TC có thể đưa hàng chục chiến đấu cơ, chiến hạm,
hàng trăm tàu cá đi ra khống chế toàn bộ Biển Đông theo cả ba chiều: trên trời,
trên mặt nước, và dưới mặt nước. Hiện TC đã có nhiều tàu chiến, tàu cảnh sát biển,
tàu ngầm ở Biển Đông.
Sau này họ sẽ có cả hàng không mẫu hạm thường trực ở
đây, đưa số lượng phi cơ thường trực ở khu vực lên mức độ có thể áp đảo các nước
khác. Họ chưa công bố vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông nhưng họ sẽ áp dụng
các quy định đơn phương đủ mọi hình thức tuỳ nơi tuỳ lúc. Tức là họ thực hiện sự
chiếm hữu và kiểm soát trên thực tế, rồi biến sự đã rồi thành sự hợp pháp sau
khi các nước chấp nhận chúng như một thực tế không thể thay đổi được.