Người Việt
Một
trong số hàng trăm tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam đã bị Trung cộng đâm chìm
trên Biển Đông. (Hình: Zing)
VIỆT NAM – Đó là nhận định của ông Nguyễn
Vân Nam, một tiến sĩ luật người Đức gốc Việt. Tờ Tuổi Trẻ đăng nhận định này
kèm đề nghị của ông Nam: Kiện Trung cộng ra tòa án
quốc tế.
Trong một cuộc trò chuyện với tờ Tuổi Trẻ về những vấn
đề có liên quan đến chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông, giống như nhiều
chuyên gia khác về luật pháp quốc tế, ông Nam cảnh báo, chính quyền Việt Nam đừng để Trung cộng kéo vào các cuộc đàm phán song
phương để giải quyết bất đồng về chủ quyền.
Sở dĩ trước nay, Trung cộng khăng khăng đòi giải quyết
các bất đồng về chủ quyền theo phương thức đàm phán song phương với từng quốc
gia đang có tranh chấp với Trung cộng về chủ quyền tại Biển Đông là vì hình thức
này giúp Trung cộng loại trừ các nghĩa vụ quốc tế của Trung cộng.
Do luật pháp quốc tế tôn trọng chủ quyền của các quốc
gia, tôn trọng thỏa thuận giữa các quốc gia, nên các thỏa thuận song phương có
thể loại trừ nghĩa vụ quốc tế mà một trong hai quốc gia từng ký kết nên Trung cộng
rất muốn sử dụng phương thức này.
Với một thỏa thuận song phương, Trung cộng
có thể loại trừ được những yếu tố mà Trung cộng muốn loại trừ nhưng không thể
hoặc chưa kịp loại trừ khi ký kết các thỏa thuận quốc tế. Trung cộng cũng có thể
sử dụng các thỏa thuận song phương để ép Việt Nam đơn phương thực hiện những
cam kết trong thỏa thuận đó, còn Trung cộng thì thoái thác thi hành bởi trong
quan hệ giữa Việt Nam và Trung cộng có những loại thỏa thuận song phương không
có hiệu lực quốc tế và vì vậy Trung cộng không sợ việc vi phạm bị hệ thống tòa
án quốc tế xét xử.
Ông Nam nhấn mạnh, điều mà
chính quyền Việt Nam cần làm ngay là đưa Trung cộng vào cơ chế giải quyết tranh
chấp đa phương theo công pháp quốc tế.
Ông Nam lưu ý, Công Ước về Luật Biển (UNCLOS) quy định
khi có tranh chấp, các quốc gia thành viên có thể chọn một trong bốn cách:
(1) Tòa án quốc tế ở Hà Lan.
(2) Tòa án quốc tế về Luật Biển ở Đức.
(3) Tòa trọng tài theo Phụ Lục 7 của UNCLOS.
(4) Tòa trọng tài theo Phụ Lục 8 của UNCLOS cho những
tranh chấp đặc biệt.
Tuy nhiên UNCLOS cho phép các quốc gia có quyền
tuyên bố bảo lưu, không chấp nhận thẩm quyền phân xử của tòa án quốc tế trong
lĩnh vực nào đó và tháng 8, 2006, Trung cộng đã có tuyên bố hợp lệ, loại trừ
quyền tài phán của tòa án quốc tế đối với “toàn
bộ tranh chấp về chủ quyền liên quan đến các đảo,” thành ra việc kiện Trung
cộng phải tính đến yếu tố không rơi vào phạm vi mà Trung cộng đã loại trừ và
đơn kiện phải được một cơ quan tài phán quốc tế chấp nhận.
Dẫu khó song ông Nam khẳng định là vẫn có giải pháp.
Chẳng hạn kiện đòi Trung cộng buộc phải thực thi nghĩa
vụ căn bản của thành viên Liên Hiệp Quốc theo Hiến Chương Liên Hiệp Quốc – loại
nghĩa vụ mà Trung cộng không thể loại trừ, ví dụ như không được sử dụng vũ lực.
Trong thực tế, các tàu hải cảnh, hải giám, kiểm ngư của Trung cộng đã
liên tục tấn công tàu đánh cá của Việt Nam, gây hư hỏng các tàu đánh cá Việt
Nam, gây thương tích cho ngư dân Việt Nam. Cho dù yếu tố “sử dụng vũ lực” có thể
sẽ gây tranh cãi nhưng điều quan trọng là yêu cầu phân xử nằm ngoài phạm vi Trung
cộng đã chủ động loại trừ nên Trung cộng không thể khước từ, không thể phủ nhận
thẩm quyền phân xử mà phải hầu tòa.
Ông Nam cũng lưu ý là cá
nhân ngư dân hay các tổ chức nghề nghiệp của ngư dân cũng có thể kiện Trung cộng
ra hệ thống tòa án quốc tế, chẳng hạn vì đã “cản trở quyền tự do đánh bắt” theo UNCLOS. Theo ông Nam, việc kiện Trung cộng có thể nhắm vào cả
hướng, “yêu cầu kết tội” (ví dụ đã sử dụng vũ lực) lẫn “yêu cầu xác định hành
vi” (ví dụ những hành động mà các tàu công vụ của Trung cộng đã thực hiện đối với
các tàu đánh cá của Việt Nam là hành vi sử dụng vũ lực).
Theo ông Nam, chuyện kiện Trung
cộng ra tòa quốc tế tuy không dễ dàng nhưng nếu có sự hỗ trợ đầy đủ để thu thập
chứng cứ, tập họp nhân chứng để đánh giá, chuẩn bị hồ sơ thì có thể khởi kiện Trung
cộng theo nhiều hướng. Điều quan trọng nhất của việc kiện Trung cộng là
vụ kiện sẽ buộc Trung cộng phải tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương
theo công pháp quốc tế. Đập nát sự ngạo mạn, trâng tráo của Trung cộng vì Trung
cộng vẫn tin là đã dùng quyền bảo lưu, thoát ra khỏi phạm vi phân xử của hệ thống
tài phán quốc tế. Mặt khác, vụ kiện có thể đẩy Trung cộng tới chỗ phải thay đổi
chiến lược ở Biển Đông vì luật pháp quốc tế không cho phép thay đổi hiện trạng,
có hành đông khiến tình hình trở thành nghiêm trọng hơn trong thời gian tòa án
quốc tế đang thụ lý vụ kiện. (G.Đ)