Đỗ Ngọc Uyển
Trong tháng 4/1975, cộng sản Bắc Việt – với sự yểm
trợ và tiếp vận của khối cộng sản quốc tế – đã mở một cuộc tấn công ào ạt bằng
quân sự với chiến xa và trọng pháo vượt qua biên giới, chiếm đóng lãnh thổ VNCH
một cách phi pháp. Đây là một cuộc xâm lăng của khối Đệ Tam Quốc Tế được uỷ nhiệm
cho bọn tay sai Việt Cộng. Theo công pháp quốc tế, VNCH hội đủ tám tiêu chuẩn của
một quốc gia độc lập, có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Do đó, khi xâm lăng VNCH, Việt Cộng đã phạm tội ác xâm lược (the
crime of aggression). Đây là một trong bốn nhóm tội ác được dự liệu tại
Đạo Luật Rome (The Rome Statute) và thuộc quyền xét xử của Toà Án Hình Sự Quốc
Tế (The International Criminal Court, viết tắt là ICC).
Ngày Thứ Hai, 23/7/07, trên trang mạng của tờ The Wall Street Journal, nhà báo James Taranto đã trích dẫn cuộc điều
tra quy mô của nhật báo Orange County
Register được phổ biến trong năm 2001 về “học tập cải tạo” tại Việt Nam và
đã kết luận rằng ngay sau khi xâm chiếm VNCH, cộng sản
đã đưa một triệu quân dân cán chính VNCH vào tù vô thời hạn – dưới cái nguỵ
danh học tập cải tạo – trong ít nhất là 150 trại tù được thiết lập trong toàn
cõi Việt Nam tại những nơi rừng thiêng nước độc với khí hậu khắc nghiệt.
Theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đại đa số những người này đã bị giam cầm từ 3 tới 10
năm và có một số người đã bị giam giữ tới 17 năm. Nếu lấy con số trung bình là
bẩy năm tù cho mỗi người, số năm tù của một triệu người là 7,000,000 năm. Đây là một tội ác hình sự mang tính lịch sử vô tiền khoáng hậu
của lũ Việt gian cộng sản mà ngàn đời sau phải ghi nhớ.
Cũng theo cuộc điều tra nói trên, cứ mỗi ba gia đình
tại Miền Nam, có một gia đình có người phải đi tù cải tạo. Và trong số một triệu người tù kể trên, đã có 165,000 người chết
vì bị hành hạ, tra tấn, đánh đập, bỏ đói, lao động kiệt sức, chết vì bệnh không
được chữa trị, bị hành quyết… Cho tới nay, hài cốt của 165,000 nạn nhân này vẫn
còn bị Việt Cộng chôn giấu trong rừng núi, không trả lại cho gia đình họ. Hiện
nay chỉ có Việt Cộng mới biết rõ tên tuổi các nạn nhân cùng nơi chôn giấu hài cốt
của họ. Đây là tội ác thủ tiêu mất tích người, một tội ác chống loài người đã
và đang diễn ra tại Việt Nam suốt 35 năm nay mà chánh phạm là tên Lê Duẩn… và
ba tên đồng phạm hiện nay là Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn
Dũng.
Điều
7
của Đạo Luật Rome đã định nghĩa tội Thủ Tiêu Mất
Tích Người “Enforced Disappearance of Persons” như sau:
Thủ tiêu mất tích người có nghĩa là bắt giữ, giam giữ
hay bắt cóc người ta với sự cho phép, sự hỗ trợ hoặc sự chấp thuận của một quốc
gia hoặc một tổ chức chính trị, sau đó không nhìn nhận sự tước đoạt tự do của
người ta và cũng không thông báo tin tức về số phận hoặc nơi giam giữ với chủ
tâm tước đi quyền được luật pháp bảo vệ của những người này trong một thời gian
lâu dài. “Enforced disappearance of persons means the
arrest, detention or abduction of persons by, or with the authorization,
support or acquiescence of a State or a political organization, followed by a
refusal to acknowledge that deprivation of freedom or to give information on
the fate or whereabouts of those persons, with the intention of removing them
from the protection of the law for a prolonged period of time.”
Theo định nghĩa
trên đây, Việt Cộng đã phạm tội ác thủ tiêu mất tích
người khi chúng lạm danh chính quyền của quốc gia để đưa ra những thông cáo lừa
gạt để bắt và giam giữ một cách phi pháp – dưới cái ngụy danh “học tập cải tạo”
– và hành hạ cho tới chết bằng những đòn thù của chúng, và tiếp tục chôn
giấu hài cốt của 165,000 quân dân cán chính VNCH trong vùng rừng núi với chủ
tâm thủ tiêu mất tích. Đây là một tội ác chống loài người (a crime against
humanity). Tội ác này thuộc quyền xét xử của Toà Án Hình Sự Quốc Tế.
Ngoài tội ác đối
với những người đã chết, cộng sản còn phạm thêm một tội ác chống loài người nữa
đối với thân nhân của những người đã chết. Đó là hành động độc ác (inhumane
act) với chủ tâm gây đau khổ tinh thần triền miên suốt đời cho thân nhân các nạn
nhân. Hãy tự đặt mình vào hoàn cảnh của những người mẹ, người vợ, người con… đã
có con, có chồng, có cha…bị giam cầm hành hạ cho tới chết và thân xác bị chôn
giấu tại một xó thâm sơn cùng cốc nào đó và tuyệt vô âm tín suốt 35 năm nay mới
thấu được nỗi thống khổ trong tâm can họ!
Điều 7 của Đạo Luật Rome đã định
nghĩa những hành động độc ác của tội ác chống loài người
này như sau:
Những hành động
độc ác có cùng một tính cách với chủ tâm gây thống khổ hay thương tích nghiêm
trọng cho thân xác hay cho sức khoẻ về thể chất và tinh thần. “Other inhumane acts of a similar character
intentionally causing great suffering or serious injury to body or to mental or
to physical health.”
Theo định nghĩa
trên đây, cộng sản đã phạm tội ác chống loài người khi
chúng chôn giấu trong rừng sâu 165,000 bộ hài cốt của quân dân cán chính VNCH
đã chết dưới đòn thù của chúng với chủ tâm gây thống khổ “intentionally causing
great suffering” suốt đời cho thân nhân của họ. Đây là cung cách trả thù
phi pháp (extrajudicial retribution) của quân thảo khấu sống ngoài vòng pháp luật.
Tội ác này cũng thuộc quyền xét xử của ICC.
Bổn phận của
chúng ta, những người tù còn sống sót sau cơn đại hồng thủy là phải cất tiếng
nói công chính, nêu rõ tội ác của chúng để mang bọn tội phạm này ra trước công
lý và mang công lý đến cho những nạn nhân của chúng. Đây là bổn phận phải làm để
trả lại danh dự cho 165,000 quân dân cán chính VNCH đã bị sát hại vì đòn thù của
Việt Cộng trong những cái gọi là trại cải tạo và để xoa dịu một phần nỗi đau
thương của thân nhân những nạn nhân.
Hai tội ác chống
loài người trên đây của Việt Cộng là những tội ác hình sự có tính quốc tế và.
được dự liệu tại Đạo Luật Rome. Trước khi đưa bọn tội phạm ra xét xử trước công
lý, xin trình bày tóm lược về Đạo Luật Rome của Toà Án Hình Sự Quốc Tế.
Đạo Luật Rome của Toà Án Hình Sự Quốc Tế (The Rome Statute of the
International Criminal Court)
Sau một thời
gian dài cố gắng thành lập một Toà Án Hình Sự Quốc Tế để xét xử và trừng phạt
các cá nhân phạm bốn loại tội ác nghiêm
trọng được cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm gồm:
1/ tội ác diệt chủng (the crime of
genocide),
2/ tội ác chống nhân loại (crimes against
humanity,
3/ tội ác xâm lược (the crime of
aggression),
4/ và tội ác chiến tranh (war crimes).
Cuối cùng thì một
hội nghị đã được Liên Hiệp Quốc triệu tập tại Rome, Italy trong thời gian từ
ngày 15/6/1989 đến ngày 17/7 /1989 với 160 quốc gia tham dự. Sau năm tuần lễ thảo
luận và điều đình căng thẳng, 120 quốc gia đã bỏ phiếu chấp thuận Đạo Luật Rome
của Toà Án Hình Sự Quốc Tế cùng với bẩy quốc gia bỏ phiếu chống (Hoa Kỳ, Do
Thái, Trung Cộng, Iraq, Qatar…) và 21 quốc gia bỏ phiếu trắng. Đạo Luật Rome gồm
có – ngoài Lời Mở Đầu (Preamble) – 13 Phần (Part) với 28 Điều (Article). Các Điều
6, 7 và 8 liệt kê và định nghĩa các tội ác diệt chủng, tội ác chống nhân loại
và tội ác chiến tranh. Các Điều còn lại nói về quyền hạn, tổ chức và điều hành…
của Toà Án.
Theo quy định, Đạo
Luật Rome sẽ có hiệu lực sau khi được 60 quốc gia phê chuẩn. Senegal là quốc
gia phê chuẩn đầu tiên và quốc gia thứ 66 đã phê chuẩn vào ngày 11 tháng 4 năm
2002. Đạo Luật Rome có hiệu lực kể từ ngày 1-7-2002.
Toà Án Hình Sự Quốc Tế cũng được mở ra trong năm đó tại The Hague, Netherlands.
Hiện nay đã có 110 quốc gia phê chuẩn Đạo Luật Rome và
trở thành quốc gia hội viên (State party) của đạo luật này. Quốc hội Hoa
Kỳ đã không phê chuẩn đạo luật này, nên Hoa Kỳ không phải là quốc gia hội viên
của Đạo Luật Rome.
Toà Án Hình Sự Quốc Tế là một tổ chức quốc tế độc lập, không trực
thuộc Liên Hiệp Quốc. Điều này
có nghĩa là Toà Án Hình Sự Quốc Tế độc lập về quyền tài phán, xét xử. Kể từ
ngày 1-7-2002 trở đi, các quốc gia hội viên của Đạo Luật Rome phải chấp nhận
quyền xét xử (jurisdiction) của Toà Án Hình Sự Quốc Tế về những tội ác được dự
liệu tại Đạo Luật Rome khi những tội ác đó diễn ra tại các nước hội viên. Công
dân của các quốc gia không phải hội viên (non State party) gây tội ác trên lãnh
thổ của các quốc gia hội viên cũng phải chịu sự xét xử của Toà Án Hình Sự Quốc
Tế.
Công Tố Viên Trưởng
của Toà Án Hình Sự Quốc Tế (The ICC’s Chief Prosecutor) bắt đầu thụ lý và mở một
cuộc điều tra về một vụ án khi nhận được tin tức về tội ác đang diễn ra do các
quốc gia hội viên hoặc Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc chuyển tới. Ngoài hai nơi
cung cấp tin tức nói trên, Công Tố Viên còn có thể nhận tin tức từ các nguồn
cung cấp khác như các cá nhân hay các tổ chức ngoài chính phủ (non-governmental
organizations).
Khi tội ác diễn
ra trên lãnh thổ của một quốc gia không phải hội viên, chỉ có Hội Đồng Bảo An
Liên Hiệp Quốc mới có quyền chuyển thông tin về những tội ác đó cho Toà Án Hình
Sự Quốc Tế để thụ lý. Đây là trường hợp đã được áp dụng đối với Sudan, một quốc
gia không phải hội viên. Bằng Nghị Quyết số 1593 năm 2005, Hội Đồng Bảo An Liên
Hiệp Quốc đã chuyển tới Toà Án Hình Sự Quốc Tế tình trạng tội ác đã và đang diễn
ra tại Darfur. Phòng công tố đã mở các cuộc điều tra, và ngày 14-7-2008, Toà Án
đã ban hành trát bắt giữ Ahmad Muhammed Harun (Ahmed Haroun), Bộ Trưởng Nội Vụ
của Sudan và Ali Muhammed Ali Abd-Al-Rahman (a.k.a Ali Kushayb), một tư lệnh
dân sự. Hai người này bị quy trách nhiệm về các tội ác chống nhân loại và tội
ác chiến tranh đã và đang diễn ra tại Darfur. Chính quyền Sudan đã từ chối bắt
giữ và giải giao hai nhân vật nói trên cho Toà Án Hình Sự Quốc Tế.
Ngày 14-7-2008,
Công Tố Viên Luis Mereno-Ocampo đã trình bày những chứng cứ chứng minh rằng Tổng
Thống Sudan phải chịu trách nhiệm về các tội ác diệt chủng, tội ác chiến tranh
và tội ác chống nhân loại đã và đang diễn ra tại Darfur. Ngày 4-3-2009, Toà Án
Hình Sự Quốc Tế đã ban hành trát bắt giữ Tổng Thống Omar Hassan Al-Bashir của
Sudan để trả lời trước công lý về năm tội ác chống nhân loại được dự liệu tại
Điều 7 của Đạo Luật Rome:
1/ Tội giết người (Murder),
2/ Tội huỷ diệt chủng tộc (Extermination),
3/ Tội cưỡng bức chuyển vùng cư trú (Forcible transfer),
4/ Tội hành hạ (Torture),
5/ Tội hiếp dâm (Rape),
và hai tội ác
chiến tranh được dự liệu tại Điều 8 của Đạo Luật Rome:
1/ Tội cướp bóc
(Pillaging),
2/ Tội trực tiếp tấn công có chủ tâm vào cư dân hay những cá nhân không đứng vào phe nào trong cuộc tranh chấp thù địch.
2/ Tội trực tiếp tấn công có chủ tâm vào cư dân hay những cá nhân không đứng vào phe nào trong cuộc tranh chấp thù địch.
Cùng với việc
ban hành trát bắt giữ Tổng Thống Bashir, Toà Án Hình Sự Quốc Tế cũng gửi một
công văn yêu cầu nhà cầm quyền Sudan giải giao Tổng Thống Bashir cho Toà Án.
Theo Nghị Quyết số 1593 năm 2005 của Hội Đồng Bảo An LHQ đã nói ở trên, chính
quyền Sudan có bổn phận phải hợp tác với Toà Án. Tuy nhiên, không có hy vọng
chính quyền Sudan sẽ bắt và giải giao Tổng Thống Sudan cho Toà Án. Chính quyền
này đã nhiều lần tuyên bố rằng họ không nhìn nhận thẩm quyền của Toà Án Hình Sự
Quốc Tế.
Nếu Tổng Thống
Bashir không ra trình diện hoặc chính quyền Sudan không giải giao ông này cho
Toà Án Hình Sự Quốc Tế, ông ta sẽ bị coi như một kẻ đang đào tẩu, trốn tránh
công lý (a fugitive from justice). Và kể từ nay, khi nào ông Bashir bước chân
ra khỏi Sudan, đến một quốc gia hội viên của Đạo Luật Rome và ngay cả những quốc
gia không phải hội viên nhưng sẵn sàng hợp tác với Toà Án, ông ta sẽ bị bắt và
giải giao cho Toà Án để trả lời trước công lý về những tội ác mà ông ta phải chịu
trách nhiệm.
Một điều quan trọng
cần ghi nhận rằng lệnh bắt giữ để đưa ra toà án xét xử
một tổng thống đang tại chức vì những tội ác chống nhân loại, tội ác chiến
tranh…là hồi chuông cảnh báo nghiêm khắc cho những kẻ cầm quyền đang phạm những
tội ác chống nhân loại có tổ chức quy mô tại Việt Nam như những tên Nông
Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng rằng chúng sẽ phải đối diện với
công lý bất kể quyền lực và cương vị của chúng.
Tội ác thủ tiêu
mất tích 165,000 quân dân cán chính VNCH đã hiển nhiên không thể chối cãi. Ngoại
trừ một số rất ít hài cốt của họ đã đuợc thân nhân tìm cách chạy chọt cải táng,
tuyệt đại đa số 165,000 bộ hài cốt còn lại đã và đang bị cộng sản chôn giấu để
thủ tiêu với chủ tâm trả thù. Chánh phạm của tội ác chống loài người này là tên
Lê Duẩn và các thủ phạm tiếp theo là những tên Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả
Phiêu, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải…và ba tên tòng phạm hiện nay là
Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng. Ngoại trừ những tên đã chết,
tất cả những tên còn sống – sớm hay muộn – sẽ phải ra trước vành móng ngựa để
trả lời về những tội ác giam cầm phi pháp và thủ tiêu mất tích 165,000 quân dân
cán chính VNCH và nhiều tội ác khác mà chúng đã phạm đối với dân tộc Việt Nam
trong suốt thời gian kể từ khi chúng cướp được chính quyền bằng khủng bố từ
ngày 19/8/1945. Đảng cộng sản VN, một chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế, là một tổ chức
tội ác tay sai có tính quốc tế. Sớm hay muộn, tội ác phải bị trừng phạt.
Ngụy
quyền Việt Cộng không ký và phê chuẩn Đạo Luật Rome, nên cộng đồng người Việt hải ngoại không thể trực tiếp
chuyển các tội ác chống nhân loại của chúng cho Công Tố Viên của Toà Án Hình Sự
Quốc Tế để thụ lý.
Tuy nhiên, chúng ta có thể tố cáo tội
ác của chúng đến Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ
(United Nations Human Rights Council)
để yêu cầu uỷ ban này mở cuộc điều tra về tội ác thủ tiêu mất tích 165,000 quân
dân cán chính VNCH và chuyển thông tin về những tội ác này cho Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc để chuyển
tiếp tới Toà Án Sự Hình Sự Quốc Tế để
thụ lý. Sự kiện này đã có tiền lệ và chúng ta có thể áp dụng.
Trước dư luận
quan tâm đặc biệt của cộng đồng quốc tế về tội ác trong cuộc chiến tại Gaza,
ngày 3-4-09, Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ đã mở một cuộc điều tra về tội ác chiến
tranh đã diễn ra tại dải Gaza trong cuộc chiến 22 ngày từ 27-12- 2008 tới 18-1-
2009. Toán điều tra gồm bốn chuyên viên cầm đầu bởi Thẩm Phán Richard
Goldstone. Sau năm tháng điều tra, ngày 29-9-2009, Thẩm Phán Richard Goldstone
đã trình cho Uỷ Ban Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc tại Geneva báo cáo kết quả điều
tra gồm 575 trang và kết luận rằng cả Do Thái và Palestine cùng phạm tội ác chiến
tranh mang tính chất tội ác chống loài người. Báo cáo yêu cầu Hội Đồng Bảo An
LHQ đòi hỏi cả hai bên trong cuộc chiến – trong thời hạn sáu tháng – phải điều
tra và xét xử những kẻ phạm tội. Nếu hai phe không thi hành, tội ác sẽ được
chuyển cho Toà Án Hình Sự Quốc Tế để thụ lý.
Ngoài sự kiện kể
trên, sau đây là hai trưòng hợp điển hình về pháp lý quốc tế mà người Việt hải
ngoại có thể áp dụng đối với những tên đầu sỏ Việt Cộng khi chúng ra khỏi nước.
Ngày 14/12/09,
trang mạng của báo Guadian.co.uk đã đưa tin về việc Ông Moshe Yaalon, Phó Thủ Tướng
Do Thái, đã quyết định không đến tham dự một buổi lễ gây quỹ tại Luân Đôn trong
tháng 11/09, sau khi được cảnh báo rằng ông ta có thể bị bắt giữ vì bị cho là
đã phạm tội ác chiến tranh tại Gaza. Quyết định của ông ta được đưa ra trong
Tháng 10/09, một tuần lễ sau khi các luật sư của 16 người Palestine đã không
thành công trong việc vận động một toà án tại Anh ban hành trát bắt giữ Ông
Ehud Barak, Bộ Trưởng Quốc Phòng Do Thái, khi ông này viếng thăm Anh vì bị cho
là đã phạm tội ác chiến tranh tại Gaza.
Cũng nguồn tin
nói trên cho biết ngày Thứ Bẩy 12/12/09, một toà án tại Luân Đôn đã ban hành
trát bắt giữ Bà Tzipi Livni, cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao Do Thái, cũng bị cho là
đã phạm tội ác chiến tranh tại Gaza. Lệnh bắt giữ này đã được hủy bỏ vào ngày
Thứ Hai 14/12/09 sau khi được biết Bà Tzipi Livni đã hủy bỏ, không tham dự một
buổi hội họp tại Luân Đôn vào ngày Chủ Nhật 13/12/09. Toà án đã ban hành trát bắt
giữ Bà Tzipi Livni chiếu theo yêu cầu của các luật sư đại diện cho các nạn nhân
người Palestine trong cuộc chiến tại Gaza. Bà Tzipi Livni là thành viên của nội
các chiến tranh và bộ trưởng ngoại giao của Do Thái khi diễn ra cuộc tấn công
vào dải Gaza vào cuối năm 2008.
Khi những người
Palestine vận động một toà án của Anh quốc ban hành trát bắt giam Ông Bộ Trưởng
Quốc Phòng và Bà cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao Do Thái khi hai người này đến Anh quốc,
họ đã dựa trên nguyên tắc pháp lý quốc tế về quyền xét xử phổ biến “universal
jurisdiction or universality principle.” Quyền này dựa trên lập luận rằng tội
ác đã phạm được coi như một tội ác chống lại tất cả “a crime against all” và bất
cứ quốc gia nào cũng có quyền trừng phạt. Do đó, những nạn nhân và cũng là thân
nhân của những người đã bị Việt Cộng thủ tiêu mất tích cũng có thể vận động để
áp dụng nguyên tắc pháp lý quốc tế này đối với những tên Nông Đức Mạnh, Nguyễn
Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng… khi chúng bước chân ra khỏi nước và đến những quốc
gia có áp dụng nguyên tắc pháp lý quốc tế về quyền xét xử phổ biến.
Tổng
Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam là tổ chức chính danh nhất đại diện cho cộng
đồng người Việt hải ngoại để yêu cầu Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ điều tra về tội ác
thủ tiêu mất tích 165,000 quân dân cán chính VNCH. Nếu Việt Cộng từ chối không cho Uỷ Ban Nhân Quyền LHQ
vào Việt Nam để mở cuộc điều tra này, điều đó chứng tỏ rằng chúng tìm cách chốn
tránh tội ác của chúng.
Nếu chúng ta vận
động mà LHQ – một tổ chức giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành Toà Án
Hình Sự Quốc Tế – vì một lý do nào đó, không chuyển những tội ác chống loài người
của Việt Cộng cho Toà Án Hình Sự Quốc Tế để thụ lý, chúng ta vẫn còn cách đưa bọn
tội phạm này ra trước công lý. Sớm hay muộn, chế độ cộng sản vô tổ quốc, phi
dân tộc sẽ bị huỷ diệt. Chính những tên đầu sỏ đang tiếm quyền trong nưóc cũng
đang thú nhận rằng chế độ của chúng đang tự diễn biến, đang tự chuyển hoá để tự
huỷ diệt…Ngày đó không còn xa và một chính quyền chính
thống của toàn dân Việt Nam sẽ hợp tác với LHQ để tổ chức một toà án hình sự đặc
biệt có tính quốc tế như Toà Án Đặc Biệt tại Cam Bốt có tên Anh ngữ là
Extraordinary Chamber in the Courts of Cambodia (viết tắt là ECCC) đang xét xử
bọn tội phạm cộng sản Khờ Me Đỏ tại Nam Vang vì các tội ác chống loài người, tội
ác chiến tranh và tội ác diệt chủng. Đây là một tiền lệ sẽ được thực thi tại Việt
Nam sau này để xét xử những tên chánh phạm Việt Cộng đã phạm bốn nhóm tội ác có
tính quốc tế được dự liệu tại Đạo Luật Rome trong suốt những năm tiếm quyền của
chúng.
Mang
Việt Cộng, bọn tội phạm có tính quốc tế, ra trước công lý và mang công lý tới
các nạn nhân của chúng là điều cần thiết bởi vì công lý là một thành tố không
thể thiếu trong tiến trình hoà giải dân tộc. “Justice is an indispensable ingredient of the process
of national reconciliation.” Dân tộc Việt Nam đã bị phân hoá và chia rẽ, xã hội
Việt Nam đã bị băng hoại trầm trọng bởi những di sản độc hại mà chế độ phi nhân
cộng sản đã để lại cho dân tộc suốt 80 năm nay kể từ khi Hồ Chí Minh lén lút du
nhập cái chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam. Mang bọn tội phạm này ra trước công
lý là để mang lại hoà bình cho xã hội. “Justice and peace go hand in hand.” Sau
hết, mang bọn tội phạm Việt Cộng ra trước công lý là một bài học cho các thế hệ
tương lai để tránh những vết xe đổ của lịch sử.
Đi Vào Bất Tử
165,000 quân dân
cán chính VNCH đã chết dưới đòn thù của cộng sản trong các trại tù cải tạo phải
được tôn vinh là những người đã hy sinh vì chính nghĩa quốc gia dân tộc. Tổ quốc
sẽ ghi ơn họ như đã ghi ơn những người chiến sĩ QLVNCH đã chiến đấu và hy sinh
ngoài mặt trận để bảo vệ quê hương. Về phương diện tâm linh, tôi không tin rằng
những người này đã chết mà chỉ tan mờ đi như hình ảnh những người lính trong
cái điệp khúc của khúc ballad nổi tiếng một thời mà Đại Tướng Douglas MacArthur đã nhắc đến trong phần
cuối của bài diễn văn từ biệt đọc tại Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ ngày
19-4-1951. Xin ghi lại nguyên văn và không chuyển ngữ:
“Old soldiers never die; they just faded away.”
Cũng xin ghi lại
đây và không chuyển ngữ câu kết của bài diễn văn từ biệt nổi tiếng đã đi vào lịch
sử của Đại Tướng MacArthur để những người lính chúng ta chiêm nghiệm.
“And like the old soldier of that ballad, I now close
my military career and just fade away, a soldier who tried to do his duty as
God gave him the light to see that duty.”
“Good bye,”
“Good bye,”
Đây cũng chính
là hình ảnh của những chiến binh QLVNCH, những người đã đi chiến đấu bảo vệ Tổ
Quốc dưới ánh hào quang dẫn đường của Tổ Tiên Lạc Việt và đi vào bất tử.
Và những hình ảnh
hiên ngang đi vào bất tử của người chiến binh QLVNCH khi bị sa cơ trong tay
quân thù cũng đã được nhà thơ Cung Trầm Tưởng ghi lại trong bài hành Vạn Vạn Lý
được viết tại một trại tù trong vùng rừng núi Hoàng Liên Sơn vào năm 1977.
VẠN VẠN LÝ
(Tưởng nhớ những tù hùng tuẫn tử)
(Tưởng nhớ những tù hùng tuẫn tử)
Cung Trầm Tưởng
Ngồi trùm lần
bóng tối Mưa về gióng lê thê
Nhìn mây đi lang thang Nai kêu nguồn đâu đó
Mây giăng xám hàng hàng Xưa nay tù ngục đỏ
Trời vào đông ảm đạm Mấy ai đã trở về
Nhìn mây đi lang thang Nai kêu nguồn đâu đó
Mây giăng xám hàng hàng Xưa nay tù ngục đỏ
Trời vào đông ảm đạm Mấy ai đã trở về
Chấn song đan u
ám Vỗ vỗ rơi tàn thuốc
Sần sùi nhớp nhúa đen Phà khói vào mông lung
Ran ran nhạc dế mèn Hư vô đẹp não nùng
Nhởn nhơ cười chẫu chuộc Nụ hôn đời khốc liệt
Sần sùi nhớp nhúa đen Phà khói vào mông lung
Ran ran nhạc dế mèn Hư vô đẹp não nùng
Nhởn nhơ cười chẫu chuộc Nụ hôn đời khốc liệt
Vỗ vỗ rơi tàn thuốc
Cõi sầu ta tinh khiết
Phà khói vào hơi sương Thép quắc vầng trán cao
Xa xưa trống lên đường Phong sương dệt chiến bào
Tiếng quân hô hào sảng Với máu xe làm chỉ
Phà khói vào hơi sương Thép quắc vầng trán cao
Xa xưa trống lên đường Phong sương dệt chiến bào
Tiếng quân hô hào sảng Với máu xe làm chỉ
Nẻo cồn vàng bãi
trắng Đã đi trăm hùng vĩ
Sa trường hề sa trường Xông pha lắm đoạn trường
Tiết tháo quắc đao thương Về làm đá hoa cương
Chinh nhân ngàn dặm ruổi Gửi đời sau tạc tượng
Sa trường hề sa trường Xông pha lắm đoạn trường
Tiết tháo quắc đao thương Về làm đá hoa cương
Chinh nhân ngàn dặm ruổi Gửi đời sau tạc tượng
Gió lên như địch
thổi Uống uốngnguyên hàm lượng
Đưa ai qua trường giang Sương trong cất đầy vò
Nay cô liêu bạt ngàn Sầu này thước nào đo
Tiễn ta vào bất tử Khi đao rơi kiếm gẫy
Đưa ai qua trường giang Sương trong cất đầy vò
Nay cô liêu bạt ngàn Sầu này thước nào đo
Tiễn ta vào bất tử Khi đao rơi kiếm gẫy
Đau thương là
vinh dự Gió về lay lau dậy
Chân đi hất hồng trần Sơn khê khói mịt mù
Anh hùng phải gian truân Ngà ngà nhấp thiên thu
Hy sinh là tất yếu Bay…bay…vạn vạn lý
Ngựa phi dòn nước kiệu… Tráng sĩ hề tráng sĩ!
Chân đi hất hồng trần Sơn khê khói mịt mù
Anh hùng phải gian truân Ngà ngà nhấp thiên thu
Hy sinh là tất yếu Bay…bay…vạn vạn lý
Ngựa phi dòn nước kiệu… Tráng sĩ hề tráng sĩ!
Cung Trầm Tưởng
Hoàng Liên Sơn, 1977
Hoàng Liên Sơn, 1977
Trong khi viết bài này, tôi luôn luôn nghĩ đến những
người bạn tù đã chết vì đòn thù của cộng sản trong đó có anh bạn tại trại 6,
liên trại 2 tại Hoàng Liên Sơn. Chúng tôi cùng thuộc đội “lao động nặng.” Anh nằm
cách tôi một người bạn. Vào một tháng cuối năm 1977, cả đội tù chúng tôi khoảng
50 người phải đi phát quang một khu đồi rộng 300 mẫu để trồng khoai mì. Khu đồi
này cách trại giam khoảng 15km đường rừng.
Ban ngày đi làm khổ sai; đêm đông về, đói và lạnh,
chúng tôi phải ngủ trong những túp lều trống gió, mái che bằng những tấm nylon
cá nhân, dựng tại chân đồi. Tuy là lính nhưng dáng người anh nho nhã. Trong đầu
anh chứa cả một bộ từ điển bách khoa. Năm đó anh chừng 45 tuổi. Sau hai tháng
khổ sai tại khu đồi 300, trở lại trại tù ít ngày thì anh chết vì suy dinh dưỡng
và kiệt sức nhưng tinh thần anh luôn luôn vững mạnh. Giờ này, thân xác anh có
thể còn đang bị cộng sản chôn giấu tại một góc rừng nào đó trong vùng Hoàng
Liên Sơn trong nỗi đau khôn nguôi của vợ con anh. Tên anh là Đặng Vũ Ruyến,
Trung Tá, Chánh Sở Địa Hình tại Đà Lạt.
Kể từ ngày đó đến nay đã hơn 30 năm, mỗi khi nhớ đến
Anh, tôi vẫn không tin là Anh đã chết mà Anh đang bay…bay vào Vạn Vạn Lý,
và…fade away…vào nơi bất tử.
Đỗ
Ngọc Uyển
(Khoá 4 Thủ Đức)
(Khoá 4 Thủ Đức)