Kính
Hòa (RFA)
Cá chết trên một bãi biển thuộc huyện Quảng
Trạch, tỉnh Quảng Bình hôm 20/4/2016. AFP photo
Nghi ngại tuyên bố từ phía
chính quyền
Ngày 22 tháng sáu, ông Hoàng Văn Thức, Phó Tổng cục
trưởng Tổng cục môi trường công bố tại Diễn đàn Nhà báo và môi trường biển đảo,
rằng nước biển tại bốn tỉnh miền Trung gánh chịu thảm họa Formosa đã an toàn
tuyệt đối, có thể tắm biển và nuôi trồng hải sản.
Dư luận, và một số nhà khoa học vẫn nghi ngờ công bố
này.
Giáo sư Lê Huy Bá, nguyên trưởng Viện Khoa học -
Công nghệ và Quản lý Môi trường, Đại học Công Nghiệp Thành phố Sài Gòn nhận
xét về công bố của Tổng cục môi trường vào hôm 22 tháng sáu:
“Tôi cho rằng như vậy chưa thật là cẩn trọng lắm,
bởi vì phần nước đã an toàn rồi, nhưng mà tầng bùn đáy, tức là tầng trầm tích
thì chưa. Chưa đủ mẫu, chưa đủ số liệu để chứng tỏ rằng nó đã an toàn, từ 20 km
trở vào ven biển. Trầm tích kim loại nặng ở tầng đáy khó lòng mà khắc phục. Khả
năng tự làm sạch của biển đối với kim loại nặng là rất khó.”
Cách đây chỉ hơn 1 tháng, Phó Thủ tướng Trương Hòa
Bình lại nói rằng ngư dân không nên đánh bắt hải sản ở tầng đáy, trong khu vực
từ 20 hải lý trở vào, dọc bờ biển bốn tỉnh miền Trung.
Giáo sư Bá cho rằng khuyến cáo của Phó Thủ tướng
Trương Hòa Bình là cẩn trọng và cần thiết.
Vào ngày 18 tháng 5, khi trao đổi với đài RFA về
chuyện ô nhiễm tầng đáy của vùng biển miền Trung, Tiến Sĩ Nguyễn Tác An, nguyên
Viện trưởng Viện hải dương học Nha Trang có nói:
“Nó phụ thuộc vào các chất độc bị thải
ra, điều kiện động lực học ở đó và khả năng tự làm sạch của vùng biển đó. Nhưng
thông thường các nước như Nhật Bản chẳng hạn họ bị ô nhiễm công nghiệp 60 năm
nay họ vẫn chưa giải quyết xong.
Những sự cố sinh thái này giống như chén
nước mình đã đổ ra đất rồi, đến bao giờ mới lấy lại được. Nhưng vì thiên nhiên
có cơ chế tái phục hồi, nhưng đòi hỏi thời gian lâu. Vùng biển Việt Nam có nhiều
yếu tố thuận lợi cho quá trình phục hồi nhưng cũng không thể chỉ vài năm là được.
Ít nhất cũng phải chục năm, không thì 20-30 năm và thậm chí có thể lâu hơn nữa.”
Cho đến nay trên trang web của Bộ Tài nguyên và môi
trường Việt Nam người ta vẫn không thấy công bố các số liệu về ô nhiễm tại vùng
biển bốn tỉnh miền Trung.
Nghiên cứu độc lập và minh
bạch thông tin
Ngay sau khi thảm họa môi trường biển Vũng Áng xảy
ra, một số chuyên viên, nghiên cứu sinh Việt Nam ở nước ngoài đã tổ chức một
nhóm nghiên cứu tên là Generosity cử người đến vùng biển Vũng Áng lấy mẩu để đo
chất ô nhiễm vào tháng năm và tháng bảy năm 2016. Các mẩu này được phân tích tại
các phòng thí nghiệm tại Hà Nội và Sài Gòn.
Chúng tôi liên lạc được với kỹ sư Trần Việt Hùng,
người sáng lập nhóm này và ông cho rằng kết luận của ông Hoàng Văn Thức là phù
hợp với kết quả phân tích của nhóm:
“Kết luận của mình đi từ kết luận của ba anh Tiến
sĩ và nghiên cứu sinh lấy mẫu ở Việt Nam ba lần. Ba mẫu này cho thấy là nhận định
của ông quan chức này là không sai. Cả ba lần lấy mẫu này đều lấy một là nước
biển, thứ hai là bùn, thứ ba là sinh vật dưới tầng đáy. Thì tất cả các mẫu này
cho thấy là không có dấu hiệu của kim loại nặng ở tầng đáy bùn, loại kim loại nặng
gây ảnh hưởng đến sức khỏe của con người.”
Nhóm Generosity đã cho công bố các kết quả này trên
trang web của mình.
Chúng tôi cũng đã liên lạc với Thạc sĩ Hoàng Trung
Du, chuyên gia khoa học về biển hiện làm việc tại Viện hải dương học Nha Trang,
ông cho biết:
“Xin lỗi là tôi không có tham gia công
việc này nên tôi không thể trả lời được. Về nguyên tắc mình muốn nói cái gì an
toàn thì mình phải có dẫn chứng. Nhưng tôi không tham gia nên tôi không trả lời
được.”
Như vậy là cơ sở khoa học hàng đầu về biển của Việt
Nam là Hải học viện Nha Trang, không tham gia vào việc nghiên cứu tác động của
thảm họa môi trường biển Vũng Áng.
Giáo sư Lê Huy Bá cũng cho biết là ông không nắm được
các số liệu về ô nhiễm, và việc nghiên cứu thảm họa Vũng Áng lẽ ra phải tập hợp
nhiều hơn các nhà khoa học và cơ quan nghiên cứu, mà trong đó Hải học viện Nha
Trang là cơ quan không thể thiếu:
“Đáng lẽ ra nên hỏi Viện hải dương học Nha Trang,
nên mời họ tham gia. Chúng tôi là những người làm khoa học thật sự rất muốn
tham gia, nhưng đâu có được mời.”
Riêng nhóm nghiên cứu độc lập của kỹ sư Trần Việt
Hùng cũng gặp khá nhiều khó khăn khi đến Vũng Áng lấy mẫu thử độ ô nhiễm, ông
nói:
“Khó khăn này không phải của chỉ riêng nhóm, mà
là của vùng Vũng Áng lúc đó, vào tháng năm tháng bảy năm ngoái. Tại vì tại Vũng
Áng lúc đó lực lượng an ninh xuất hiện rất là nhiều, có người muốn ra biển thì
người ta hỏi là ra biển để làm gì. Đợt đó phải tìm người quen biết rồi nói là
ra biển làm này làm nọ thôi chứ không thể nói với họ mình làm cái mục đích của
mình được.”
Trả lời câu hỏi là tại sao bây giờ khi nhà nước công
bố biển đã an toàn thì vẫn còn nhiều nghi ngại, kỹ sư Hùng cho rằng tâm lý đó bắt
nguồn từ những ngày đầu tiên thảm họa xảy ra, việc chậm trễ công bố thông tin,
trong khi mạng xã hội phát triển rất mạnh mẽ, làm cho người ta nghi ngờ là
chính quyền đang che giấu một điều gì đó.
Giáo sư Lê Huy Bá nói rằng chuyện nghiên cứu thảm họa
môi trường, ngoài việc phải huy động nhiều nhà khoa học, còn cần phải tiến hành
một cách công khai minh bạch để cho người dân có thể tin vào các kết quả nghiên
cứu.