Vùng đất phía Bắc của người Bách Việt từng lên đến tận
phía Nam sông Dương Tử (hay Trường Giang), tới khu vực Hồ Động Đình (tức tỉnh Hồ
Nam, Hồ Bắc của Trung Hoa lục địa ngày nay). Việc này không chỉ được ghi nhận lại
trong các truyền thuyết mà còn nằm trong những chứng tích của lịch sử.
Truyền thuyết
Theo Lĩnh Nam Chích Quái thì ông nội của Lạc Long
Quân là Đế Minh (cháu 3 đời của Thần Nông) sinh ra con cả là Đế Nghi. Khi Đế
Minh đi tuần thú phương Nam thì gặp và cưới con gái bà Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục.
Ngay từ tấm bé Lộc Tục đã thể hiện rất thông minh và đoan chính.
Đế Minh rất ngạc nhiên trước tư chất thông minh và
tài trí của Lộc Tục nên muốn chọn làm người nối ngôi, thế nhưng Lộc Tục lại muốn
nhường ngôi cho anh mình là Đế Nghi.
Cuối cùng Đế Minh quyết định truyền ngôi cho con trưởng
Đế Nghi làm vua phương Bắc, và cho Lộc Tục làm vua phương Nam, lấy sông Dương Tử
làm giới tuyến. Ông tế cáo trời đất trên Thiên đài rằng: “Trước đất trời
nguyện rằng: Nam, Bắc cương thổ có khác. Nam không xâm Bắc. Bắc không chiếm
Nam. Kẻ nào phạm lời nguyền thì chết dưới đao thương”.
Nước Xích Quỷ được tô màu có diện
tích gấp 10 lần nước Việt ngày nay. (Ảnh: Wikipedia)
Từ đấy phía Bắc sông Dương Tử do Đế Nghi cai quản,
phía Nam sông Dương Tử do Lộc Tục cai quản. Lộc Tục khi lên ngôi Vua lấy hiệu
là Kinh Dương Vương, năm 2879 TCN đặt quốc hiệu là Xích Quỷ, biên giới
phía Bắc tới Động Đình Hồ, phía Nam giáp với nước Hồ Tôn, phía Tây giáp với Ba
Thục, phía Đông giáp với biển Nam Hải.
Như vậy theo sự phân chia vào thời đấy thì biên giới
phía Bắc của người Việt lên đến Động Đình Hồ (phía Nam sông Dương Tử), bao gồm
cà các tỉnh của Trung Hoa ngày nay như Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Tây,
Quảng Đông, v.v.
Bản
đồ nước Việt cổ. (Ảnh: Wikipedia)
Nếu tính diện tích thì Bắc giáp Động Đình Hồ vĩ tuyến
29 Bắc, phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành sau này) vĩ tuyến 11 Nam, phía
Tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên) kinh tuyến 105 Đông, phía Đông giáp bể Nam Hải,
kinh tuyến 118 Đông. Tổng cộng diện tích của Xích Quỷ khoảng 2.900.000 km2.
Khi vua Kinh Dương Vương mất, con trai là Lạc Long
Quân lên nối ngôi, lập ra nhà nước Văn Lang. Khi ấy, biên giới của Bách Việt vẫn
được vẹn toàn.
Truyền
thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ. (Ảnh qua vietbao.vn)
Trong khi đó, dù hậu nhân sau này đã mở mang bờ
cõi về phía Nam, nhưng lại mất đi phần đất phía Bắc, nên diện tích Việt
Nam bây giờ là 331.698 km2 (tính cả diện tích trên biển), chỉ bằng
khoảng 1/10 so với trước kia.
Hai Bà Trưng khôi phục giang sơn
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào năm 40 SCN
đã giành được thắng lợi và lấy lại nguyên vẹn lãnh thổ nước Việt cổ.
Hai
Bà Trưng cùng các nữ tướng quả cảm của mình đánh đuổi quân Hán đến tận Động
Đình Hồ, một nữ tướng là Trần Thiếu Lan đã tử trận tại sông Thẩm Giang. Đây là
con sông nối với Hồ Động Đình. Sách thời nhà
Nguyễn có ghi chép rằng: “Các
sứ thần triều Lý, Trần, Lê đi sứ sang Trung Quốc, khi qua nơi đây đều có sắm lễ
vật đến cúng miếu thờ bà Trần Thiếu Lan.”
Hình ảnh Hai Bà Trưng đánh đuổi
quân Hán.
Khi giành được giang sơn, Hai Bà Trưng giao cho nữ
tướng Phật Nguyệt chức Tổng trấn khu hồ Động Đình – Trường Sa. Năm 1979, giáo
sư Trần Đại Sỹ tìm thấy tại thư viện bảo tồn di tích cổ ở tỉnh Hồ Nam (tỉnh thủ
phủ phía Nam Động Đình Hồ, Trung Quốc) có ghi chép trận đánh Động Đình Hồ như
sau: “Quang Vũ nhà Hán sai Phục ba tướng quân Tân tức hầu Mã Viện. Long
nhượng tướng quân Thận hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật
Nguyệt tổng trấn hồ Ðộng đình. Mã Viện, Lưu Long bị bại. Vua Quang Vũ truyền Nhị
thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một
tay nhổ núi Nga mi, một tay nhổ núi Thái sơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông
Trường giang, hồ Ðộng đình, oán khí bốc lên tới trời”.
Giáo sư Trần Đại Sỹ từng tới Hoa lục để tìm hiểu
về lịch sử cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng và quân Hán, thấy rất nhiều tỉnh đều thờ
Vua Bà, nhiều nhất là tỉnh Hồ Nam (khu vực Động Đình Hồ), nhưng không ai còn nhớ
Vua Bà là ai.
Khi ông đến đến Côn Minh, giáo sư sử học Đoàn Văn ở
đây cho hay: “Trong truyền thuyết dân gian nói rằng hồi đầu thế kỷ thứ
nhất có trận đánh giữa quân vua Bà với quân Hán tại Bồ lăng. Nay Bồ lăng nằm
trên lãnh thổ Tứ Xuyên, chỗ ngã ba sông Trường giang và Ô giang.”
Giáo sư Trần Đại Sỹ đến bến Bồ Lăng thuộc huyện Bồ
Lăng, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Hoa để tìm hiểu. Tại đây giáo sư được Sở du lịch hướng
dẫn đến miếu thờ 3 vị thần, tướng của Vua Bà. Nhưng bản thân họ cũng không biết
Vua Bà và 3 vị tướng này cụ thể là ai, chỉ cho biết vua Bà là người nổi lên chống
tham quan thời Hán, cả vùng đó đều có đạo thờ Vua Bà.
Miếu thờ có rất nhiều câu đối, nhưng cuộc cách mạng
văn hóa của Trung Quốc đã hủy gần hết các câu đối này. May mắn là ba câu đối vẫn
còn tồn tại tới ngày nay.
Phía trước cửa miếu có câu đối rằng:
Khẳng khái, phù Trưng, thời bất lợi,
Ðoạn trường, trục Ðịnh, tiết… can vân.
Ðoạn trường, trục Ðịnh, tiết… can vân.
Nghĩa là:
Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của
Ngài không lâu.
Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay, phải tự tận…
Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay, phải tự tận…
khí tiết ngút từng mây.
Phía trong miếu
có câu đối:
Giang thượng
tam anh phù nữ chúa,
Bồ Lăng bách tộc khốc thần trung.
Bồ Lăng bách tộc khốc thần trung.
Nghĩa là:
Trên sông
Trường giang, ba vị anh hùng phò tá nữ chúa,
Tại bến Bồ lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.
Tại bến Bồ lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.
Những tư liệu
này cho thấy biên giới người Việt thời Hai Bà Trưng phía bắc tới Động Đình Hồ
(phía Nam sông Dương Tử), phía Tây tới tận Ba Thục (tức tỉnh Tứ Xuyên ngày
nay).
Bản đồ nước Lĩnh Nam thời Hai Bà Trưng, phía Bắc đến Động
Đình Hồ, phía Tây đến Bồ Lăng (Ba Thục). (Ảnh: Wikipedia)
Trải qua ngàn
năm Bắc thuộc, người Việt dồn dần xuống phía Nam để tránh sự cai trị hà khắc,
khiến khu vực phía Bắc người Hoa Hạ ngày càng đông hơn.
Năm 938, Ngô Quyền
lãnh đạo người Bách Việt đánh bại quân Nam Hán, làm chủ lại các vùng đất của nước
Việt. Tuy nhiên một dải đất lớn phía Bắc là Nam Hải, Tượng Quận, Quế Lâm
đã bị bỏ qua, và diện tích nước Việt nhỏ hơn trước. Sau này dù bờ cõi đã được mở
rộng về phía Nam, nhưng diện tích ngày nay chỉ bằng hơn 1/10 so với trước đây.
Truyền thuyết không cách xa sự thực
Trong bài viết
có tựa đề “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam” trên diễn
đàn Lý Học Đông Phương, vốn là bài diễn văn tiếng Pháp của giáo sư Trần
Đại Sỹ đọc trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp – Á, được
dịch giả Tăng Hồng Minh đăng tải, giáo sư Trần Đại Sỹ đã nhắc tới nhiều luận
điểm khẳng định biên giới cổ của Việt Nam nằm ở hồ Động Đình. Những luận điểm
này được đích thân giáo sư Trần Đại Sỹ khảo cứu và viếng thăm thực địa, trong
đó nổi bật là:
1 – Núi Ngũ lĩnh
trong truyền thuyết về Đế Minh xác thực nằm ở Trường Sa, Hồ Nam. Ngoài ra tại tỉnh
này còn có rất nhiều các di tích được nhắc tới của tộc Việt như: hồ Động Đình,
núi Tam Sơn, sông Tương, Thiên đài, Tương đài, cánh đồng Tương.
2 – Thiên đài mà Đế Minh tế cáo trời là có thật, nằm
gần bên bờ Tương Giang. Trên đỉnh này có một ngôi chùa nhỏ, bên trong còn có
nhiều chứng tích về Hai Bà Trưng và trận Động Đình. Ngoài ra giáo sư Trần
Đại Sỹ còn tìm thấy một tài liệu mang tên “Thiên đài di sự lục” tại
thư viện Hồ Nam, trong đó miêu tả rõ rằng Thiên đài thờ vua Đế Minh và vua Kinh
Dương.
3 – Cánh đồng Tương là nơi mà Lạc Long Quân và Âu Cơ
đã hẹn nhau tái hội mỗi năm một lần là có thật. Giáo sư Trần Đại Sỹ kết luận rằng
cánh đồng Tương chính là vùng trũng phía Tây Ngạn, giới hạn phía Bắc
là hồ Động Đình, Nguyên Giang. Phía Nam là Linh Lăng,
Hành Giang. Phía Tây là vùng Chiêu Dương, Lãnh Thủy. Nhưng nay cánh đồng
Tương chỉ còn khu vực tứ giác: Tương Giang, Nguyên Giang,
Liên Thủy, Thạch Khê Thủy.
Cùng với một số luận điểm vững chắc khác, giáo sư Trần Đại Sỹ đi đến kết luận
rằng:
Biên giới cổ của nước Việt
Nam, với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam, phía Bắc quả tới
hồ Ðộng Đình, phía Tây giáp Tứ Xuyên.
Vậy là diện tích nước Việt cổ thực sự
lớn gấp 10 lần ngày nay.
Trần
Hưng