Năm ngoái, bộ trưởng
bộ quốc phòng Trung cộng, tướng Thường
Vạn Toàn, khẩn nài cả
nước phải sẵn sàng cho một cuộc “chiến
tranh nhân dân trên biển”. Mục tiêu của cuộc vận động này? Để “bảo vệ chủ
quyền” sau phán quyết bất lợi của Tòa Trọng tài Quốc tế về luật biển. Tòa đã
ủng hộ ý nghĩa rõ ràng của Công ước Liên Hiệp Quốc về luật biển (UNCLOS), phán
quyết rằng tuyên bố của Bắc Kinh về “chủ quyền không thể tranh cãi” chiếm 80
tới 90% diện tích biển Đông là vớ vẩn.
Nói cách khác, một
quốc gia mạnh có bờ biển dài, không thể đơn giản giành lấy vùng biển quốc tế
hoặc vùng biển thuộc về các quốc gia láng giềng yếu hơn và nói rằng đó là của
mình.
Hoặc, dù viện cớ gì,
quốc gia đó cũng không thể làm như vậy một cách hợp pháp. Nó chỉ có thể làm
điều đó qua xâm lược, cưỡng bức sau khi đã có sự hiện diện quân sự thường
xuyên. Những người bảo vệ tự do hàng hải, do đó, phải lưu ý đến lời khẩn nài
của tướng Thường. Đông Nam Á và các đồng mình bên ngoài phải xem những lời
tuyên bố đó là nghiêm trọng, và phải nỗ lực suy nghĩ sâu xa về viễn cảnh một
cuộc hải chiến trên biển Đông.
Đó là điểm đầu tiên về
cuộc chiến tranh nhân dân trên biển. Một cuộc đụng độ có vũ khí là hoàn toàn có
thể xảy ra. Các
chính khách và các chỉ huy ở những nơi như Manila, Hà Nội, và Washington không
thể xem nhẹ lời của tướng Thường chỉ là lời khoác lác ầm ĩ.
Thật vậy, rất đáng ngờ rằng Trung
cộng sẽ tuân thủ phán quyết của tòa UNCLOS vào thời điểm này, ngay cả nếu giới
lãnh đạo đảng Cộng sản Trung cộng muốn như vậy. Nghĩ về một hình ảnh thuần phục
như vậy sẽ gây phản ứng ở trong nước. Hai thập kỷ qua, Bắc Kinh đã đầu tư rộng
rãi vào lực lượng hải quân vĩ đại, và hỗ trợ hải quân với hỏa lực trên bờ dưới
dạng máy bay chiến đấu, dàn hỏa tiễn chống tàu, tàu chiến tầm ngắn như tàu tuần
tra nhanh và tàu ngầm chạy diesel.
Các lãnh đạo đảng ru
ngủ dân chúng bằng cách làm thế nào họ sẽ dùng sức mạnh trên biển để biến những
chuyện lịch sử giả mạo thành đúng và khiến quốc gia nổi tiếng về sức mạnh hàng
hải. Bây giờ họ phải cuốn theo sự lừa dối đó.
Thật điên khùng khi
gắn danh dự quốc gia và chủ quyền của Trung cộng vào những tuyên bố chủ quyền
biển đảo mâu thuẫn rành rành với nhau. Nhưng các lãnh đạo đảng đã làm như vậy.
Và họ đã làm như vậy lặp đi lặp lại, công khai, và bằng những từ ngữ hùng hồn
nhất có thể nghĩ ra được. Bằng ngôn từ của mình họ đã kích động tinh thần quốc
gia, đồng thời cũng biến chính họ phải chịu trách nhiệm về việc đó. Họ đã khởi
động một vòng xoáy độc hại của việc gia tăng kỳ vọng của dân chúng.
Bẻ gãy vòng xoáy này
gần như là không thể. Nếu Bắc Kinh giảm bớt đòi hỏi chủ quyền trên biển bây
giờ, người dân Trung cộng sẽ – một cách đúng đắn – phán xét giới lãnh đạo bằng
chính những tiêu chuẩn mà họ đã đặt ra. Các lãnh đạo đảng có thể sẽ bị tố cáo
là những người nhu nhược đã nhượng bộ lãnh thổ thiêng liêng, thất bại trong
việc báo thù thế kỷ ô nhục của Trung cộng mặc cho Trung cộng đang tiến lên
thành một siêu cường, và để cho các luật gia và các quốc gia láng giềng nhỏ hơn
được chống lưng bởi một vài siêu cường chế nhạo ý chí ngông cuồng và xấu xa của
Trung cộng.
Không lãnh đạo nào
thích thú với việc bị nhìn nhận là nhu nhược. Điều đó rất nguy hiểm ở Trung
cộng. Như những nhà ngoại giao vĩ đại đã dạy, rất khó để những nhà thương
thuyết hoặc các lãnh đạo chính trị xuống thang từ những cam kết với công chúng.
Đã hứa thì phải giữ lời. Nếu thất hứa thì bạn đã tự làm mất uy tín – và chuốc
lấy tai họa trong cuộc thương lượng.
Như những lãnh đạo
đúng mực khác, Bắc Kinh thích đạt được mục đích mà không phải tiến hành chiến
tranh hơn. Chiến đấu, tuy thế, có thể là lựa chọn ít tồi tệ nhất mà các lãnh
đạo đảng đã để dành lại. Đó là tình trạng khó khăn mà họ đã tự tạo ra.
Điều đó cũng dẫn tới
điểm thứ hai. Phán xét từ lời nói của tướng Thường, nền ngoại giao cây gậy nhỏ
đã hoàn thành sứ mạng. Ngoại giao cây gậy nhỏ là triển khai Lực lượng Bảo vệ bờ
Biển Trung cộng và những bộ phận không vũ trang trên biển để tuần tra các vùng
biển mà Bắc Kinh đã tuyên bố chủ quyền. Nó vẽ ra chủ quyền của Trung cộng ở
biển Đông như là một thực tế, và sẽ chiến thắng mọi đối thủ dám đảo ngược thực
tế này.
Không ai chống lại
chuyện đó, chủ quyền trên thực tế của Trung cộng – gần như độc quyền trong việc
sử dụng vũ lực trong vùng biên giới vẽ ra trên bản đồ – sẽ ngày càng được củng
cố qua thời gian. Một khi nó đã trở thành một điều bình thường mới, nó thậm chí
có thể tạo ra luồng hào quang về tính hợp pháp giữa các quốc gia đi biển.
Tòa án UNCLOS đã giáng
một đòn đau vào cách tiếp cận của Trung cộng, làm sụp đổ luận điểm gần như hợp pháp để
hỗ trợ cho ngoại giao cây gậy nhỏ. Quyết định của tòa cho thấy rõ ràng rằng lực
lượng trên biển của Trung cộng hoạt động ở, ví dụ như, vùng đặc quyền kinh tế
của Phi Luật Tân là những kẻ xâm lược hoặc kẻ chiếm đóng – chứ không phải là
cảnh sát.
Nếu Bắc Kinh không thể
vượt qua các tàu tuần tra bờ biển màu trắng, nó sẽ để cho quân đội. Các quốc
gia có chủ quyền triển khai các hoạt động đảm bảo thực thi pháp luật để giám
sát những gì hợp pháp thuộc về họ. Họ triển khai lực lượng quân đội để chiến
đấu giành lấy những gì đang tranh cãi. Kiểu nói chuyện như trong thời chiến của
tướng Thường ngụ ý rằng Bắc Kinh đã từ bỏ lối tiếp cận mềm dẻo và ngầm công
nhận rằng Đông Nam Á là một vùng tranh chấp.
Thứ tiếng lóng mà ông
ta dùng cũng quan trọng. Chiến tranh nhân dân là câu nói của Mao nhằm truyền
tải một vài ý tưởng chiến tranh. Hồng quân của Mao Trạch Đông đã phát động
chiến tranh nhân dân để chiếm đóng những vùng tranh chấp từ quân xâm lược Nhật
Bản và Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Có vẻ như Trung cộng hiện tại đang nhìn biển
Đông với cùng một thuật ngữ – như một chiến trường ngoài khơi nơi mà đối thủ
phải bị chiến thắng bằng vũ lực.
Nhưng không phải chỉ
bởi sức mạnh quân sự. Bắc Kinh sẽ không rút lại lực lượng tuần duyên, các ban
ngành chấp pháp hàng hải, hoặc đội tàu cá – một dạng dân quân không chính thức
– từ những vùng biển tranh chấp. Họ sẽ ở đó như là một bộ phận của tổ hợp đội
tàu của chính quyền. Nhưng Hải quân và Không quân của Quân đội Giải phóng Nhân
dân (PLA) sẽ đóng vai trò nổi bật trong tổ hợp chiến đấu này.
Trong những ngày thực
thi ngoại giao cây gậy nhỏ, cây gậy lớn của hải quân là mối đe dọa ngầm ẩn từ
chân trời. Những thủy thủ Phi Luật Tân hay Việt Nam biết rằng lực lượng tuần
duyên Trung cộng có chỗ dựa nếu họ thách thức chúng. Khả năng lớn là các chỉ
huy Trung cộng sẽ sử dụng cây gậy lớn bừa bãi hơn trong tương lai – cho thấy sự đe dọa
công khai và rõ ràng hơn là ngấm ngầm và khó nhận biết.
Đây là điểm thứ ba.
Một chiến lược chiến tranh nhân dân trên biển sẽ đối đầu với một liên minh đa
dạng trong đó những nước bên ngoài – Mỹ, và có thể thêm Nhật Bản hoặc Úc – cung
cấp phần lớn sức mạnh chiến đấu. Phi Luật Tân hoàn toàn không đủ lực. Việt Nam
có quân đội dũng cảm và ghê gớm, nhưng cũng khó có thể kháng cự người khổng lồ
phương Bắc mà không có giúp đỡ.
Bản chất kỳ lạ của
liên minh này sẽ cung cấp cho Bắc Kinh các cơ hội để phá vỡ chúng. Trung cộng
có thể nhận xét rằng bất kỳ xung đột nào ở biển Đông cũng sẽ trở thành “cuộc
chiến bởi đội ngũ” đối với Hoa Kỳ, một cuộc chiến trong đó Washington cố định
độ lớn của lực lượng được gửi tới để hỗ trợ các đồng minh trong vùng và chỉ đạo
các chỉ huy của lực lượng đó làm tất cả những gì có thể với nguồn lực họ có.
Các chiến lược như vậy
có thể rất tuyệt vời để gây rối nhưng hiếm khi mang tính quyết định. Ví dụ như Wellington
dẫn đầu một đạo quân cập bờ Iberia năm 1807. Đoàn quân viễn chinh đã cho
Napoleon một “khối ung nhọt Tây Ban Nha,” một sự tham chiến rầy rà trên một mặt
trận mới. Tuy nhiên Wellington chưa bao giờ tự lừa dối mình rằng ông sẽ thắng
cuộc chiến tranh trải dài trên khắp lục địa với một lực lượng viễn chinh khiêm
tốn được tăng cường bởi những đội du kích và Hải quân Hoàng gia.
Với cách tiếp cận như
vậy, nói cách khác, sẽ phản bội lại một nửa sự chân thành từ phía Washington.
Sau tất cả, nước
Mỹ sẽ tham gia vào một cuộc phiêu lưu thử thách có cái kết mở ở một chiến
trường xa xôi, ngoài khơi của đối thủ mà không hề có ý nghĩ sẽ giành nổi chiến
thắng. Sự trung thành một nửa sẽ dập tắt những cuộc phiêu lưu như vậy.
Chiến tranh nhân dân
nói về việc dẻo dai hơn các kẻ thù mạnh hơn trong những hoàn cảnh như vậy. Nếu
người tranh chấp yếu hơn là Trung cộng, được trang bị các nguồn dự trữ sức mạnh
dồi dào để sử dụng, vậy thì người tranh chấp đó cần thời gian. Lực lượng vũ
trang Trung cộng sẽ kéo dài chiến dịch, vừa để câu giờ vừa để tập hợp nhiều sức
mạnh hơn và bào mòn sức mạnh chiến đấu của kẻ thù.
Một cách ngắn gọn, Trung
cộng có thể thắng ngay cả khi họ yếu hơn nước Mỹ về tổng thể. Quân đội Giải phóng
Nhân dân (PLA) có thể thu hẹp hoặc đảo ngược cán cân lực lượng trên chiến
trường – áp đảo đội quân của Mỹ tại không gian và thời gian thật sự quan trọng.
Nó có thể làm Washington mất tinh thần. Các lãnh đạo Mỹ có thể tuyệt vọng trong
việc duy trì cam kết không có thời hạn. Hoặc, Trung cộng có thể duy trì chiến tranh lâu
hơn Hoa Kỳ – gây ra nhiều trận thua chiến thuật qua thời gian dài, do đó sẽ đẩy cái
giá phải trả để giữ gìn tự do hàng hải cao hơn những gì mà các lãnh đạo Hoa Kỳ
sẵn sàng trả. Nếu
nước Mỹ cuốn gói về nước, cuộc phiêu lưu sẽ sụp đổ.
Làm thế nào, bằng các
thuật ngữ chiến dịch và chiến thuật, các chỉ huy của PLA làm được điều đó? Bằng
cách chặt bỏ truyền thống chiến tranh của chính họ. Trung cộng có thể dự đoán
được về mặt chính trị và chiến lược ở biển Đông nhưng không thể dự đoán được về
mặt chiến dịch và chiến thuật. Dự đoán được về mặt chính trị hoặc chiến lược bởi vì
các lãnh đạo đảng tự đẩy họ vào chân tường với dân chúng trong nước. Không dự
đoán được về mặt chiến thuật bởi vì đó là cách mà lực lượng vũ trang Trung cộng
đã chiến đấu từ thời Mao.
Thật vậy, “phòng thủ
tích cực”, một khái niệm nhờ đó mà Mao đã hệ thống hóa ý tưởng của mình về
chiến tranh nhân dân, vẫn là trung tâm của chiến lược quân sự Trung cộng. Hãy
hỏi Bắc Kinh. Để đơn giản hóa một chút, hình ảnh kỳ lạ phía sau phòng thủ tích
cực là một nước Trung cộng yếu hơn có thể nhử một võ sĩ mạnh hơn vào việc kéo
dài và tiêu hao sức lực của hắn trước khi ra đòn phản công quyết định. Hãy nhớ
lại “Cuộc ẩu đả trong rừng rậm” của võ sỹ vĩ đại Muhammad Ali và bạn sẽ hiểu ý
tưởng này.
Nếu lối tiếp cận tiêu
hao sinh lực địch như vậy có thể thực hiện ở phạm vi rộng lớn, lực lượng vũ
trang Trung cộng có thể gây ra những thất bại chiến thuật làm suy yếu kẻ thù
qua thời gian. Phòng thủ tích cực, như thế, là việc tiết chế tấn công chiến
thuật để dành sức cho các chiến dịch phòng thủ chiến lược.
Để theo đuổi chiến
thuật đó, các chỉ huy Trung cộng sẽ tìm các đội quân kẻ thù đang bị cô lập mà
họ có thể tấn công ở “đường biên ngoài”, bao vây và nghiền nát chúng. Tác dụng
dồn lại của việc bị thua trận chiến thuật lặp đi lặp lại sẽ bào mòn kẻ mạnh –
và có thể khiến giới lãnh đạo của kẻ mạnh tự vấn về nỗ lực có còn xứng đáng cho
khó khăn, nguy hiểm và cái giá phải trả. Nếu không, logic giá phải trả/phần
thưởng sẽ đẩy lãnh đạo Hoa Kỳ về hướng thoát thân – và Trung cộng sẽ chiến
thắng ngay cả khi không có một thắng lợi trực tiếp và rõ ràng trên các lực
lượng của liên quân.
Hoa Kỳ và các sĩ quan
không quân, hải quân của liên quân, theo đó, phải nghiên cứu truyền thống chiến
tranh của Trung cộng, lượm lặt cái nhìn vào bên trong để biết việc phòng thủ
tích cực ngoài khơi sẽ như thế nào ở biển Đông. Nếu bạn là Bắc Kinh và đang xây dựng lực
lượng dân quân đi biển, một lực lượng bảo vệ bờ biển ấn tượng, lực lượng hải
quân bản địa lớn nhất châu Á, và một lượng vũ khí khổng lồ trên mặt đất để
khống chế cục diện trên biển, bạn sẽ pha trộn các thành phần lại thành một công
cụ chiến đấu sắc bén như thế nào – và củng cố sự kiểm soát vùng biển đóng một
nửa?
Cố gắng nhìn vào những
vấn đề như vậy có thể sẽ được tưởng thưởng xứng đáng nếu Trung cộng cố gắng đưa
khái niệm chiến lược của tướng Thường và Mao vào thực tiễn.
Một lời khuyên cuối từ
Mao Trạch Đông. Tướng Thường đã sử dụng thuật ngữ truyền thống Trung cộng, xoay
quanh chiến tranh nhân dân, để miêu tả cách mà Bắc Kinh giải quyết vấn đề với
Đông Nam Á. Nhưng nhớ rằng chiến lược của người yếu thích hợp với Mao ở thời
điểm đó chứ không phải là chiến lược ưa thích của ông ta. Ông ta viết điều đó
cho một Trung cộng ốm yếu, bị tàn phá bởi nội chiến và sự xâm lược của ngoại
bang.
Nó khó có thể làm
khác. Nhưng mục đích của việc phòng thủ tích cực – hay chiến tranh nhân dân –
là để biến Hồng quân thành một đối thủ mạnh hơn. Một khi lực lượng của Mao đảo
ngược được cán cân sức mạnh, họ sẽ tổng phản công và chiến thắng trên chiến
trường quy ước.
Đây không phải là Trung
cộng thời Mao. Nước này đã là một cường quốc kinh tế và quân sự, và sẽ chiến
đấu trên mảnh đất của họ. Ngày nay, PLA có nhiều lựa chọn tấn công hơn Hồng
quân của Mao rất nhiều. Thay vì trở lại với khái niệm chiến tranh nhân dân
nguyên bản thời Mao, các chỉ huy của PLA có thể theo đuổi sự phối hợp giữa các
đơn vị tham chiến lớn và nhỏ để chống lại liên quân dẫn đầu bởi Hoa Kỳ.
Chiến tranh nhân dân,
như vậy, có thể bắt đầu giống như một trận hải chiến quy ước nếu Bắc Kinh tin
rằng cán cân quân sự và xu thế có lợi cho Trung cộng.
Bằng mọi giá, hãy xem xét
cách thức chiến tranh của Trung cộng, nhận thức rõ những gì chúng ta có thể
biết về thói quen và suy nghĩ tiến hành chiến tranh của người Tàu cộng. Nhưng đó không phải là
sự lặp lại kịch bản của Mao từ những năm 1930 và 1940. Làm thế nào họ chuyển
dịch học thuyết của Mao về bối cảnh ngoài khơi – và làm thế nào mà một liên
quân lỏng lẻo có thể vượt qua một thách thức như vậy – là câu hỏi đặt ra với
những người ủng hộ tự do hàng hải.
James Holmes (National Interest)
27.08.2017
James Holmes là Giáo
sư Chiến lược ở Trường Hải quân và là đồng tác của cuốn sách “Cờ Đỏ trên biển
Thái Bình Dương” (Red Star over the Pacific). Ông là học giả nổi bật trong
chương trình Van Beuren tại đại học Georgia, trường Sự vụ Công và Quốc tế mùa
hè này. Quan điểm đưa ra ở đây là của tác giả.
© Copyright Tiếng Dân – Bản tiếng Việt
http://baotiengdan.com/2017/08/28/ke-hoach-cua-tq-de-chien-thang-trong-cuoc-chien-o-bien-dong-la-gi/