“Việt Nam thì không thế. Tuy “Nam/Bắc
hoà lời ca” sớm hơn nước Đức đến mười lăm năm nhưng chính cách xuyên
suốt của chính phủ hiện hành vẫn hoàn toàn nhất quán trong việc
phân biệt đối xử giữa kẻ thắng và người thua.”
Bao Dung & Đểu Giả
tuongnangtien
Khoan dung không chỉ là một phẩm hạnh của
cá nhân, mà còn là một tính chất của cộng đồng và trách nhiệm của một quốc gia.
Tạp
Chí Luật Khoa mời gọi độc giả tham gia chủ đề “Thế
Nào Là Một Quốc Gia Đáng Sống,” và đã nhận được nhiều bài
viết thú vị.
- Lê Quang Dũng: “Nơi quốc gia có đạo đức.”
- Châu
Tiểu Lan: “Nơi mọi nghề
nghiệp đều có chỗ đứng đúng đắn trong xã hội.”
- Đức
Việt: “Nơi người dân có thể
tự bảo vệ mình.”
- Hân
Bụi: “... nơi mà những người
dân sống ở đó không ai muốn ra đi, từ bỏ nơi chôn nhau cắt rốn của mình.”
- Lê
Nguyễn Duy Hậu : “Cần có
nhiều yếu tố để một quốc gia trở nên đáng sống, nhưng yếu tố quan trọng nhất
có lẽ là lòng khoan dung.”
Quan niệm thượng dẫn về “lòng khoan dung”
khiến tôi nhớ đến một bài viết ngắn ngủi nhưng rất cảm động của
tác giả Xuân Thọ về
tình nghĩa thầy trò, và đức bao dung:
Tôi có rất nhiều thầy cô giáo cũ ở CHDC
Đức (đều từ 70 đến 80 tuổi), đã về hưu từ ngày nước Đức thống nhất, nhưng vẫn
có cuộc sống yên lành... Năm 2006 và năm 2011 tôi có mời một số anh chị em
bạn học cũ từ Việt Nam sang Đức chơi, (có thể có người đang đọc bài này). Cả
hai lần chúng tôi đều kéo nhau về trường cũ, bỏ tiền ra làm một bữa liên hoan,
có cả âm nhạc Việt Nam, mời toàn bộ các thầy cô đến dự. Họ rất mừng và nói:“Các
học sinh Đức cũ không ai nhớ đến chúng tôi, nhưng người Việt các anh chị quả là
rất ơn nghĩa, 40 năm rồi vẫn nhớ đến chúng tôi”.
Nhờ chúng tôi tổ chức họp mặt họ mới có
dịp gặp nhau, vì trường cũ đã giải tán và nội bộ của họ có nhiều vấn đề: mất
đoàn kết, thù hận nhau, do chính quá khứ của đảng SED để lại, nên họ không bao
giờ chủ động gặp nhau.
Trong số phận của các thầy cô, tôi chỉ
xin kể 2 sự việc:
1- Bà Magdalena M. vốn là một bà giáo rất
đẹp gái, tóc bạch kim, cao ráo, dáng rất sang, dạy kỹ thuật truyền tin. Sau 40
năm gặp lại bà vẫn như vậy và lái xe BMW mui trần đến dự liên hoan. Trước kia
tôi không quan tâm đến cuộc sống của bà, nay thấy bà nổi bật lên giữa các vị
giáo già nua thanh đạm. Bà bảo: Lương hưu giáo viên của bà thì tạm đủ, nhưng
ông chồng bà là đại tá không quân Quân đội Nhân dân Quốc Gia CHDC Đức. Sau khi
thống nhất ông được lương hưu tương đương như ông quan năm Tây Đức nên khá lắm!
Bà buồn là ông mới mất và nay bà chỉ còn sống bằng lương hưu của bà và 1 phần
lương hưu bà góa của ông (Witwenrente).
Bà M. than phiền với tôi là: So với ông
đại tá ở phía Tây Đức thì cái tỷ lệ lương hưu để lại cho bà góa có ít hơn.
Tôi không biết điều bà M. nói đúng hay
sai, nhưng tôi an ủi bà: Ngày trước ông nhà chỉ lo mỗi việc là tiêu diệt người
ta, sau này người ta trả lương hưu hậu như vậy, lúc ổng qua đời, bà còn được
lương bà góa của ông nhà thì chắc là sự bất công không bằng đồng bào tôi ở Sài
Gòn đã chịu, họ không những không có lương hưu mà còn phải đi cải tạo, có người
chết mất cả xác.
Bà M. không phản đối điều tôi nói và trầm
ngâm hẳn. Từ đó đến nay, bà vẫn hay gửi email trao đổi chuyện chính trị với
tôi.
2- Ông bà Joseph và Gundela GL. là hai
người tôi coi như bố mẹ nuôi. Bọn con trai, mấy thằng Erwin, Peter, Michael vẫn
chơi bóng đá với đám thanh niên Việt Nam chúng tôi, con bé Martina suốt ngày quấn
quít với các bạn gái Việt. Suốt mấy chục năm xa cách tôi vẫn thư từ cho bà.
Đùng một cái, từ năm 1990, sau thống nhất đất nước Đức, tôi mất liên lạc với
bà. Tôi dò hỏi các thầy cô cũ thì biết cả hai ông bà từng là mật vụ chìm cho
STASI (An Ninh CHDC Đức) nên khi chế độ sụp đổ, mọi việc vỡ lở, ông bà xấu hổ
quá, đưa cả gia đình đi xa.
Từ khi sang Đức, tôi đã cất công tìm
tung tích của ông bà, vì tôi vẫn nhớ đến tình cảm của họ đối với đám thanh niên
Việt chúng tôi khi xưa. Là người Việt Nam, tôi thừa hiểu cái bi kịch “cá chìm”
mà hàng triệu người Đông Đức hồi đó phải gánh chịu, dù là nạn nhân hay là thủ
phạm. Đối với tôi tình cảm con người là trên hết.
Nhờ có Internet và hệ thống sổ điện thoại
điện tử, tôi đã tìm được gia đình ông bà GL. Ông bà có một căn nhà nhỏ trên đảo
Usedom, nằm trên biển Baltic, gần Ba-lan. Ông bà rút vào cuộc sống ẩn dật để
tránh mọi quan hệ với bạn bè, đồng nghiệp cũ. Câu con cả Erwin làm giám đốc
trung tâm điều dưỡng trên đảo và vẫn chăm nom ông bà. Ông bà cảm động lắm và
nói là họ đã mất hết bạn bè người Đức, nhưng may mà tôi đã đến với họ.
Điều làm ông bà ân hận nhất là cái “sổ
hưu”. Vì là nhân viên mật vụ STASI nên ông bà có quyền cao chức trọng hơn các đồng
nghiệp khác trong trường, mặc dù họ có trình độ hơn ông bà. Nhờ vậy ngày nay
ông bà lĩnh lương hưu cao hơn họ, những nạn nhân của ông bà.
Xuân Thọ (20.12.2012
Cologne)
Đông và Tây Đức thống nhất năm 1990. Mối liên
hệ tình cảm cá nhân của dân chúng hai miền đất nước (có thể) vẫn
còn năm điều/ba chuyện bất bình hay “lấn cấn” nhưng ở khía cạnh luật
pháp, và trên bình diện quốc gia thì mọi người đều bình đẳng – bất
kể họ thuộc bên nào.
Việt
Nam thì không thế. Tuy “Nam/Bắc hoà
lời ca” sớm hơn nước Đức đến mười lăm năm nhưng chính cách xuyên
suốt của chính phủ hiện hành vẫn hoàn toàn nhất quán trong việc
phân biệt đối xử giữa kẻ thắng và người thua.
The winner takes all. Kẻ thua thì thua trắng và mất hết, kể cả
cái tên gọi như Sài Gòn hay Chính Quyền Miền Nam. Hơn bốn mươi năm sau,
dư luận mới thoáng chút “râm ran” khi nghe những nhà sử học của bên
thắng cuộc “thống nhất bỏ tên gọi ngụy quyền” cho bên thua cuộc – theo
tường trình của phóng viên Lan Hương (RFA) vào hôm 21 tháng 8 năm 2017:
Chúng tôi
cũng có dịp trao đổi với PGS.TS Trần Đức Cường, nguyên Viện trưởng Viện sử học,
hiện là Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, đồng thời là tổng chủ biên bộ
sách Lịch sử Việt Nam này. PGS.TS Trần Đức Cường cho chúng tôi biết lý do các
nhà sử học thống nhất bỏ tên gọi ngụy quyền đối với chế độ Việt Nam Cộng Hòa:
“Bản chất
chính quyền Sài Gòn và quân đội Sài Gòn theo chúng tôi không có gì thay đổi cả.
Đấy là một chính quyền được dựng lên từ đô la và vũ khí, thực hiện chiến lược
toàn cầu của Mỹ, ngăn chặn chủ nghĩa Cộng Sản lan xuống vùng Đông Nam Á, đồng
thời chia cắt đất nước Việt Nam một cách lâu dài, biến miền Nam thành thuộc địa
kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Điều đó không có gì nghi ngờ cả”.
“Thứ hai,
quân đội Sài Gòn thực chất được Mỹ trang bị hoàn toàn và quan trọng hơn là thực
hiện mưu đồ của Mỹ. Đó cũng là một đội quân đi đánh thuê. Thực chất các nhà sử
học không có một đánh giá nào khác so với thời gian trước đây.”
“Nhưng về
cách gọi, chúng tôi nghĩ rằng trong một văn bản khoa học, mình gọi trung tính vẫn
hơn là ngụy quân, ngụy quyền. Bởi vì cách gọi này mang tính biểu cảm, miệt thị
cho nên chúng tôi gọi là quân đội Sài Gòn và chính quyền Sài Gòn.”
Liên quan đến
sự kiện này, bản tin (hôm 28 tháng 8 năm 2017) của trang Tiếng Dân có đoạn như sau:
Bộ sách Lịch Sử Việt Nam: Vũ Như Cẩn!
Bài trên
báo Tiền Phong: Bộ sách
‘Lịch sử Việt Nam’ có gì ồn ào? Nhà sử học Dương
Trung Quốc, cho biết: “Chỉ là cuốn sách của Viện Sử thôi, có gì mà ồn ào,
giời ạ!” Nhưng ông cũng nói về bộ sách mới tái bản: “Có gì mới đâu”.
Nhà nghiên
cứu Dương Quốc Đông, Viện Sử học, cho biết, đây là bộ sử tái bản, không có gì mới.
GS.TSKH Vũ Minh Giang, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, xác nhận:“Bộ
sử được viết lâu rồi. Nhiều người chưa đọc tưởng cuốn này trình bày kỹ lắm, không có gì đâu, thoáng tí thôi. Do cách diễn đạt khi họp
báo thôi…”.
Nhà sử học Lê Văn Lan cho biết, bộ sử này có tiếng
vang là do thủ thuật tuyên truyền.
Trức đó hai ngày trang Dân
Luận có bài viết của tác giả Nguyễn Thị Bích Ngà, với tựa là “Về bộ
sách lịch sử Việt Nam: Vẫn là sử đểu!”
Sử đểu cũng như sự bao dung đểu cáng (hay đều giả) chả lừa
gạt được ai, đã đành; nó còn đẩy xa thêm tiến trình hoà giải của
cả một dân tộc mà nhân tâm vốn đã ly tán từ lâu!