„Vấn đề quan trọng là Việt Nam phải nhanh chóng thoát
ra khỏi vòng kim cô xã hội chủ nghĩa, thực sự xây dựng Việt Nam là một quốc gia
dân chủ, tự do và công bằng thì mới khai dụng được tiềm lực dân tộc để có thể
đóng góp hiệu quả cho tương lai ASEAN nói chung và cho đất nước Việt Nam nói
riêng.“
Cộng đồng ASEAN và tương
lai Việt Nam
Bùi Như Tường
10 nguyên thủ của khối ASEAN quyết định
xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN hôm 21/11/2015 tại Kuala Lumpur, Mã Lai
Theo như cam kết của 10 nhà lãnh đạo ASEAN hôm 21
tháng 11 năm 2015 tại Thủ đô Kuala Lumpur của Mã Lai, Cộng đồng kinh tế ASEAN
(ASEAN Economic Community, viết tắt AEC), sẽ chính thức ra đời vào thời khắc
cuối năm 2015.
ACE được coi là một trong 3 trụ cột của Cộng đồng
ASEAN nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra trong Tầm Nhìn ASEAN 2020. Hai trụ cột
còn lại là Cộng đồng an ninh ASEAN và Cộng đồng văn hóa – xã hội ASEAN.
Trong ba trụ cột nói trên, ACE là trụ cột quan trọng
và chi phối rất lớn tiềm năng phát triển của khu vực Đông Nam Á, với giấc mơ
trở thành một nền kinh tế lớn thư tư thế giới vào năm 2050.
Cộng đồng ASEAN có dân số khoảng 625 triệu dân, tổng
GDP toàn khu vực là 2.600 tỷ Mỹ Kim và tổng kinh ngạch thương mại đạt 2.530 tỷ
Mỹ Kim năm 2014. Hiện nay, ASEAN là nền kinh tế lớn thứ 7 thế giới sau Hoa Kỳ,
Trung Hoa lục địa, Nhật Bản, Đức, Anh, Pháp.
Tuy cùng đứng trong một khối 10 quốc gia, nhưng ASEAN
chia làm 2 nhóm, dựa theo trình độ phát triển kinh tế thương mại của mỗi nước.
Nhóm thứ nhất, gọi là ASEAN 6 gồm Thái Lan, Mã Lai,
Nam Dương, Tân Gia Ba, Brunei là những quốc gia có trình độ phát triển cao và
lợi tức bình quân đầu người đạt ở mức từ 6.000 Mỹ Kim/người (Thái Lan) tới
60.000 Mỹ Kim/người (Tân Gia Ba). Những quốc gia này đã xóa bỏ gần 100% dòng
thuế từ năm 2010 theo Hiệp định ưu đãi thuế quan ATIGA.
Nhóm thứ hai, gọi là ASEAN 4 gồm Việt Nam, Miến Điện,
Campuchia, Lào là những quốc gia có trình độ phát triển thấp và lợi tức trung bình
đầu người ở mức dưới ngưỡng cửa 1.000 Mỹ Kim/người. Bốn quốc gia này đến năm
2015 mới áp dụng việc xóa bỏ dòng thuế 100% nhưng được giữ lại 7% số dòng thuế
đến năm 2018 bao gồm các mặt hàng ôtô, linh kiện, sắt thép và phụ tùng xe máy
cũng như một số sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm như gia cầm sống, thịt gà, trứng
gia cầm…
Nhìn vào cách phân chia nói trên, những quốc gia hạng
hai như Việt Nam, Miến Điện, Campuchia sẽ có nhiều điểm lợi là gần như 100%
hàng hóa của mình được tự do lưu chuyển trong khối ASEAN, nhờ vậy mà có thể thu
hút thêm đầu tư từ các doanh nghiệp của những nước trong vùng.
Theo Bộ công thương thì ASEAN hiện là đối tác đứng
hàng thứ 2 cung cấp hàng hóa cho Việt Nam sau Trung Hoa lục địa; nhưng ASEAN
lại là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam sau Liên Âu và Hoa Kỳ. Tổng
kim ngạch thương mại của Việt Nam với ASEAN năm 2014 là 42,1 tỷ Mỹ Kim. Tổng số
kim ngạch ASEAN đầu tư vào Việt Nam là 58,8 tỷ Mỹ Kim.
Những con số nói trên cho thấy là Việt Nam không đạt
kết quả khả quan trong vấn đề mậu dịch với khối ASEAN. Bằng chứng là kim ngạch
thương mại của Việt Nam với ASEAN chỉ chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong
khi đầu tư chỉ khoảng 20%. Nói cách khác là Việt Nam chưa thu hút khối ASEAN.
Muốn thu hút đầu tư và phát triển mậu dịch với Thái
Lan, Nam Dương, Tân Gia Ba, Phi Luật Tân, Việt Nam không thể giải quyết bằng
các chính sách kinh tế thương mại như hiện nay mà phải có nhiều chính sách
khác, trong đó cần tiến hành hai cải tổ sâu rộng về mặt luật lệ và đào tạo nhân
lực.
Trước hết là vấn đề luật lệ. Đây là vấn đề mà
phía nhà cầm quyền CSVN đã đưa ra từ nhiều năm qua, nhưng cho đến nay chưa đạt
yêu cầu. Điều quan trọng là những luật lệ cải tổ phải đáp ứng nhu cầu xây dựng
Việt Nam trở thành một quốc gia được thế giới công nhận có nền kinh tế thị
trường.
Hiện tại, theo như Cộng đồng kinh tế Âu Châu đưa ra, Việt Nam còn phải cải cách về luật pháp để
đạt 4 tiêu chuẩn sau đây hầu được công nhận là nước có nền kinh tế thị
trường. Bốn tiêu chuẩn còn thiếu là:
·
Không có sự can thiệp của nhà nước làm biến dạng hoạt động hàng ngày của
doanh nghiệp;
·
Quản trị doanh nghiệp, kế toán và kiểm toán;
·
Sự tồn tại và thực thi một chế độ pháp lý, tôn trọng các quyền sở hữu trí tuệ,
phá sản và cạnh tranh cũng như các hệ thống tư pháp;
·
Lãnh vực tài chánh của Việt Nam còn quá bấp bênh.
Về lãnh vực giáo dục đào tạo. Đây là lãnh vực đầu
tư lâu dài và sẽ trở thành một động lực phát triển mạnh mẽ của Việt Nam đứng
đầu khối ASEAN trong tương lai nếu biết khai dụng đúng mức.
Việt Nam hiện là nước lớn thứ ba trong khối ASEAN với
dân số 90 triệu người sau Nam Dương (225 triệu dân) và Phi Luật Tân (99 triệu
dân). Dân số này sẽ tăng tới 100 triệu vào năm 2020 với tỷ lệ tăng 1% hàng năm.
Tỷ lệ người dưới 25 tuổi chiếm 45% khiến nhu cầu đào tạo tại Việt Nam vô cùng
to lớn.
GDP của Việt Nam năm 2014 là 187 tỷ Mỹ Kim nhưng chỉ
dành dưới 20% GDP cho ngân sách giáo dục, nên phải nói là không đủ so với tiềm
lực dân số trẻ gia tăng nhanh nên vì thế mà ngân sách giáo dục luôn luôn thiếu
hụt.
Việt Nam hiện có 491 trường Cao đẳng và Đại học, trong
đó có 55 học viện, 219 trường Đại học, 217 trường Cao đẳng, các trường tư chiếm
20% khoảng 60 trường Cao đẳng và Đại học, con số này quá ít.
Số sinh viên hiện nay là 2,363,942; trong đó chỉ có
313,620 học tại các trường tư.
Tuy nhiên số sinh viên ra trường tìm được công an việc
làm đúng ngành nghề đếm trên đầu ngón tay, trong khi đó số sinh viên không tìm
ra công ăn việc làm rất lớn - từ 150 ngàn đến 200 ngàn mỗi năm.
Ngoài ra, bằng cấp ở Việt Nam không được hệ thống quốc
tế công nhận, mặc dù Việt Nam đã ký công nhận bằng cấp với 10 nước.
Để chấn chỉnh trình độ
giáo dục Việt Nam, cần phải tiến hành 3 nỗ lực chính yếu.
·
Xóa
bỏ chính sách giáo dục chỉ đạo từ đảng và từ Bộ giáo dục. Tôn trọng sự độc lập
của các đại học và các trung tâm nghiên cứu. Có như vậy các chương trỉnh giảng
dạy và đào tạo mới thực tế và đi sát với nhu cầu xã hội. Nói cách khác các đại
học phải độc lập về tài chánh, học thuật và nhân sự.
·
Xã
hội hóa giáo dục, tức là để cho tư nhân, xí nghiệp được tham gia đầu tư vào lãnh vực giáo
dục đào tạo.
·
Sách
giáo khoa phải thay đổi toàn diện phù hợp theo xu hướng thể giới và nhất là bãi
bỏ toàn bộ ý thức hệ Mác Lê-nin lạc hậu.
So với nhiều quốc gia ASEAN, Việt Nam không chỉ đông
về dân số mà còn là vùng đất thuận lợi cho thương mại, du lịch, giao thông… Do
đó nếu Việt Nam được xây dựng tốt đẹp sẽ trở thành một điểm tựa quan trọng cho
khối ASEAN.
Vấn đề quan trọng là Việt Nam phải
nhanh chóng thoát ra khỏi vòng kim cô xã hội chủ nghĩa, thực sự xây dựng Việt
Nam là một quốc gia dân chủ, tự do và công bằng thì mới khai dụng được tiềm lực
dân tộc để có thể đóng góp hiệu quả cho tương lai ASEAN nói chung và cho đất
nước Việt Nam nói riêng.