Trương Nhân Tuấn
Image copyright asiabooking.com.vn
Sài Gòn từng được mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn
Đông", "từng là số một của khu vực", đúng như lời của ông Đinh
La Thăng vừa nhắc trên báo chí.
Mơ ước của ông Đinh La Thăng, xây dựng lại để Sài Gòn
trở thành "Hòn ngọc Viễn Đông", là một ước mơ đẹp, chắc chắn sẽ được
sự đồng tình và chia sẻ từ nhiều thành phần dân tộc. Vấn đề là xây dựng lại với
mô hình nào?
Sài Gòn, thành phố được quân viễn chinh Pháp xây dựng
trên vùng đầm lầy, từ những năm 1860. Đô đốc Bonard dự kiến một thành phố
"quan trọng", bao gồm Chợ Lớn, cho một dân số 500.000 người.
Mô hình thành phố là một Paris thu nhỏ, (vì vậy Sài
Gòn ban đầu mệnh danh là Petit Paris - Paris thu nhỏ), như mong muốn của những
thủy sư đô đốc Pháp, những người đầu tiên tham gia cuộc viễn chinh phân xẻ
Trung Hoa.
Những công trình đầu tiên xây dựng ở Sài Gòn hiện nay
là do thợ thầy ở Hồng Kông, những người được mời về, vì có kinh nghiệm về xây
dựng trên vùng đầm lầy.
Đối thủ lợi hại của Pháp trong khu vực, về quân sự
cũng như kinh tế chiến lược, dĩ nhiên là Anh Quốc.
Ở phương diện cạnh tranh về hình ảnh trên trường quốc
tế, hai đế quốc Anh và Pháp luôn có dịp là phô trương.
Sài Gòn (Hải Phòng và Hà Nội) được Pháp dốc sức xây
dựng để cạnh tranh với Tân Gia Ba và Hồng Kông của Anh.
Xuất xứ của tên gọi
"Hòn Ngọc Viễn Đông"
Image copyright Getty
Danh xưng "Hòn ngọc Viễn Đông" xuất hiện để
chỉ cho Sài Gòn, thủ đô Đông Dương về kinh tế (và ăn chơi), cạnh tranh với
"hòn ngọc Viễn Đông" của Anh là Tân Gia Ba.
Hà Nội được xây dựng để trở thành một "thủ đô văn
hóa" của Đông Dương. Tất cả các trung tâm văn hóa của ba xứ Đông Dương đều
tụ tập ở đây. Còn Hải Phòng, nỗ lực của Pháp để cạnh tranh với Hồng Kông cũng
rất lớn lao. Điển hình là công trình xây dựng đường xe lửa Hải Phòng - Vân Nam,
với cây cầu nổi tiếng thời đó là cầu Long Biên (trước đó có tên là Paul Doumer,
viên thống sứ chủ trương phát triển kinh tế các xứ thuộc địa).
Mới đây, ông Trương
Thái Du viết bài trên BBC (*), so sánh hơn thua giữa Sài Gòn và Tân Gia Ba. Bài
viết nói: "Việc ngợi ca "hòn
ngọc Viễn Đông số một" và "Tân
Gia Ba mơ thành Sài Gòn" chỉ là
suy nghĩ của những người Việt Nam Cộng hòa hoài cổ và dí dỏm sau 1975."
Dĩ nhiên danh xưng "Hòn ngọc Viễn Đông"
không hề đến từ suy nghĩ của những người VNCH hoài cổ, mà đó là một sự thật
lịch sử, là mục tiêu xây dựng thuộc địa của đế quốc Pháp. Việc này có thành
hiện thực hay không, đọc lại sử sách của Anh, hay của các nước chung quanh ta
có thể kiểm chứng.
"Hòn ngọc Viễn Đông" cũng là lời tán dương
trên đầu môi chót lưỡi của những chính trị gia, những nhà "sành điệu ăn
chơi" sống trong thời kỳ đó.
Sài
Gòn, "Hòn ngọc Viễn Đông", là chốn "phồn
hoa đô hội", nơi nhà giàu khoe tiền của. Thời đó, tài phiệt quốc tế trong khu vực,
nếu không đi Paris mua sắm, thì người ta qua Sài Gòn.
Không ai đi Vọng Các hay Tân Gia Ba. Chơi bời, cờ bạc, hút sách... cũng vậy,
không ai đi qua các thuộc địa của Anh. Sài Gòn là nơi những "đại gia"
các nước đến đốt tiền.
Lời phê bình của Phạm Quỳnh, dẫn trong bài viết của
Trương Thái Du cho rằng hải cảng Tân Gia Ba lớn hơn rất nhiều Sài Gòn và Hải
Phòng. Điều này không làm giảm đi cái lấp lánh của "Hòn ngọc Viễn
Đông" - tên gọi Sài Gòn. Đơn giản vì Sài Gòn không phải là hải cảng.
Việc lựa chọn Sài Gòn (thay vì Đà Nẵng), với vị trí ở
sâu trong đất liền, là do quyết định của thủy sư đô đốc Page, một quyết định
thuần túy quân sự, với hai mục đích: một là phòng thủ và hai là nhằm mở rộng
lãnh thổ cho đến Campuchia, Lào; sau đó mở đường sông Cửu Long sang Tàu. Vì lý
do phòng thủ mà dự án "vòng đai Sài Gòn" được thiết lập, với vòng đai
là một con kinh bề ngang 20m, sâu 6m, nối sông Sài Gòn qua kinh Thị Nghè. Dự án
này sau đó bãi bỏ.
Những tiêu chí để so
sánh
Image copyright GettyImage
caption Thuyền bè và các hoạt động vận chuyển tại cảng Sài Gòn 1/1970
Cũng trong bài viết này dẫn lời phê bình của cụ Trần
Trọng Kim, cho rằng Bangkok lớn hơn Hà Nội năm bảy lần. Thì cũng đúng thôi. Hà
Nội không phải là Sài Gòn.
Từ khi nhà Nguyễn thiên đô về Huế, Hà Nội trở thành
cái bóng của lịch sử. Cho đến cuối thế kỷ 19, tại Bắc Kỳ, tinh thần hoài Lê vẫn
còn rất mạnh. Loạn lạc thường xuyên nổi lên. Nguyên nhân vì sĩ phu Bắc Hà không
chấp nhận việc dời đô. Thăng Long là thủ đô ngàn năm thì không thể hạ xuống
dưới Huế và Sài Gòn được.
Riêng câu "50
năm trước, ông Lý Quang Diệu nhìn về Sài Gòn và mơ ước Tân Gia Ba sẽ được như
Sài Gòn" mà bài viết có nhắc, thì chỉ mới xuất hiện sau này. Người ta cho rằng ông Lý Quang Diệu có
nói vậy. Vấn đề là không ai ghi rõ ông này nói câu đó ở đâu, lúc nào?
Điều chắc chắn là không có người VNCH hoài cổ nào
"sáng tác" ra được một lời như vậy.
Nếu so sánh "bề thế", Sài Gòn hay Tân Gia Ba
lớn, như ý kiến của bài viết trên BBC, thì việc so sánh cũng không ổn. Tân Gia
Ba là một đảo nhỏ, không có đất để mở rộng thành phố. Vì vậy làm sao so sánh
được với Sài Gòn? Mà độ lớn nhỏ của một thành phố đâu có nói lên được điều gì ?
Quan trọng là hạ tầng cơ sở của thành phố đã được xây dựng ra sao.
Một cách đơn giản để so sánh Sài Gòn với Tân Gia Ba
(và Bangkok), là so sánh các bản đồ của các thành phố này (cùng thời kỳ).
Việc làm này hết sức dễ dàng vì hiện nay các tập bản
đồ Indochine, Thái Lan, Tân Gia Ba... có thể tham khảo tự do trên các trang
web.
Bản
đồ Sài Gòn, Bangkok và Tân Gia Ba cùng năm 1928. Ta thấy, trên bản đồ, mức độ
qui mô của Sài Gòn vượt xa Bangkok (và dĩ nhiên Tân Gia Ba).
Điều nên biết, các nước được xếp vào vùng Viễn Đông
bao gồm: Việt, Miên (Campuchia) , Lào (là ba nước Đông dương thuộc Pháp), Mã
Lai (Malaisia), Tân Gia Ba (Singapore), Thái Lan, Nam Dương (Indonesia), Phi
Luật Tân (Phillipines), Đại Hàn, Trung Quốc và Nhật Bản. Nước nào cũng có
"Hòn ngọc Viễn Đông" của nước đó, do tự phong hay do "quốc
tế" đặt tên.
Image copyright Reuters Image
caption Sài Gòn, nay được gọi là Thành phố Hồ Chí Minh
Sự cạnh tranh của hai đế quốc Anh và Pháp, thực ra là
Pháp cạnh tranh với Anh (do ganh tị) vì vậy, vô hình chung, Việt Nam hưởng lợi.
Từ những năm 1895 Pháp đã tập trung vào việc xây dựng hạ tầng cơ sở ở thuộc địa
nhằm phát triển kinh tế, với tham vọng qua mặt Anh quốc tại Tân Gia Ba và Hồng
Kông.
Bản đồ năm 1921 cho thấy hệ thống đường xá (đường lộ
và đường sắt) huyết mạch cơ bản ở các xứ Đông Dương đã được xây dựng. Hệ thống
cơ sở hạ tầng này vẫn còn được sử dụng đến hôm nay.
Nếu so sánh về hạ tầng cơ sở, cùng thời, Sài Gòn bỏ xa
Bangkokvà Tân Gia Ba. Dẫu vậy, Tân Gia Ba có tầm quan trọng lớn về chiến lược,
kiểm soát hầu hết các hải đạo thông thương Âu-Á. Tân Gia Ba cũng là một hải
cảng lớn nhất vùng, Sài Gòn không thể so sánh (vì không phải là hải cảng).
Nếu so sánh Sài Gòn với các thành phố (ở các nước Viễn
Đông) sau 1945, thì sự khác biệt lại càng sâu sắc.
Tân Gia Ba, Kuala Lumpur, trong thời kỳ Thế chiến II
bị Nhật chiếm, sau đó chịu sự oanh tạc, bỏ bom của quân Đồng minh, bị tàn phá
nhiều nơi, ngoại trừ Sài Gòn (và Hồng Kông). Vì vậy ta không thể so sánh.
Bài viết đã dẫn trên BBC cũng đưa ra các số liệu về kinh
tế, cho rằng GDP của Mã Lai thường lớn gấp đôi đến gấp 3 lần Việt Nam. Nguyên
văn dẫn lại như sau:
"Theo các hồ sơ lưu trữ cũng như các nghiên cứu
kinh tế Châu Á suốt thế kỷ 20, GDP của Việt Nam đều có vị trí rất thấp. Ví dụ,
theo thống kê của hai giáo sư kinh tế học Jean-Pascal Bassino và Pierre van der
Eng, từ 1913 đến 1970 kinh tế Việt Nam (cả miền Bắc và miền Nam) hầu như luôn thấp
hơn Malaya (tiền thân của Mã Lai với Tân Gia Ba là thủ đô kinh tế), Phi Luật
Tân, Thái Lan (không có số liệu trước 1950).
"Tùy thời
điểm, GDP của Malaya thường gấp đôi đến gấp 3 lần Việt Nam, thì lẽ nào thủ phủ
kinh tế của nó chỉ là một làng chài nhỏ và mơ được như Sài Gòn!"
'Nhầm lẫn'
Image copyrightGetty
Cái sai thứ nhất (của đoạn dẫn trên), là Tân Gia Ba
chưa bao giờ là "thủ đô kinh tế" của Mã Lai hết cả.
Thuở ban đầu, Tân Gia Ba là một lãnh thổ thuộc bang
Johor, sau đó trở thành thuộc địa của Anh (1819). Khi độc lập, bang Johor gia
nhập Liên Bang (gồm cả Tân Gia Ba), nhưng sau đó Tân Gia Ba bị đuổi ra khỏi
Liên bang Mã Lai (1965).
Cái sai thứ hai là tài liệu thống kê của Jean-Pascal
Bassino và Pierre van der Eng không hề ghi GDP của VN thấp hơn Mã Lai đến hai,
ba lần.
Thực ra số liệu GDP đầu người không nói lên được điều
gì.
Dưới thời thực dân, người dân Việt, ở miền Trung và
miền Bắc, một cổ hai tròng. Một tròng của thực dân và một tròng của quan lại.
Miền Nam thì một tròng của thực dân và một tròng của địa chủ. Vì vậy GDP đầu
người rất chênh lệnh, tương tự Việt Nam hiện nay. Những người có chức quyền thì
tiền xài không hết, trong khi những người dân khác thì "lần không
ra".
GDP ở Sài Gòn tính bằng trung bình của người giàu có
(đốt tiền theo kiểu Hắc, Bạch nhị công tử) hay người nông dân?
Vì vậy, kết luận của tác giả bài viết trên BBC hết sức
sai lầm và phiếm diện. Sai lầm vì không nắm vững lịch sử bành trướng thuộc địa
của các đế quốc Anh và Pháp. Sai lầm vì diễn giải sai những dữ kiện toán học
đồng thời dữ kiện đưa ra không đúng với tư liệu nguồn. Sai lầm khác là so sánh
những thứ không thể so sánh.
Làm sao để Sài Gòn
lấy lại hình ảnh xưa?
Image copyright Hoang Dinh Nam AFP
Trở lại ý kiến của ông Đinh La Thăng, làm thế nào để Sài Gòn lấy
lại hình ảnh của "Hòn ngọc Viễn
Đông" ngày xưa?
Theo tôi, có nhiều mô hình để nghiên cứu. Thứ nhất mô
hình Kuala Lumpur, với Tiến sĩ Mahathir. Mô hình này tách Kuala Lumpur thành
một "tiểu bang tự trị", có thẩm quyền như các tiểu bang khác. Kuala
Lumpur trở thành trái tim kinh tế của Mã Lai, với nhiều cơ sở công kỹ nghệ tiên
tiến về dầu hỏa, điện tử, cơ khí...
Thứ hai, mô hình Tân Gia Ba với Lý Quang Diệu. Điều
này sách vở Việt Nam có nhiều người đề cập.
Thứ ba mô hình "đặc khu kinh tế" của Đặng
Tiểu Bình.
Ta thấy các mô hình này đều thành công, vì nó phù hợp
với tình hình địa lý, chính trị, nhân văn của các nước.
Việt Nam hoàn toàn khác. Việt Nam có nhiều tiềm
năng để qua mặt các "đặc khu kinh tế" theo kiểu Đặng Tiểu Bình hay mô
hình Kuala Lumpur của Tiến sĩ Mahathir. Nhưng Việt Nam
không có cái gì để so sánh với Tân Gia Ba.
Vấn
đề là chế độ chính trị. Chưa thấy mô hình chế độ XHCN nào kinh tế
phát triển bền vững. Đó là chưa nói đến các hệ quả của nền công an trị. Việc
này đã tạo sự thù hận, đào hố sâu ngăn cách giữa những thành phần dân tộc. Dĩ
nhiên, về lâu dài, đó là yếu tố cản trở mọi phát triển cũng như đe dọa sự ổn
định trong xã hội.
Trương Nhân Tuấn (Gửi cho BBC từ Pháp)