„Cùng
với việc ký kết Hiệp định TPP, phát triển liên kết Quốc phòng sau
dỡ bỏ cấm vận vũ khí, Peace Corps và FUV được xem là hai mũi nhọn
đầu tiên, thâm nhập vào môi trường xã hội Việt Nam…
Đây
có thể là một giai đoạn chuyển tiếp, một dạng quá độ đầy mâu thuẫn
và đầy trở ngại, nhưng chứa đựng những mầm mống thay đổi căn bản?“
FUV và sự lạc hướng của dư luận
Bùi
Quang Vơm
Quyết định thành lập Đại học Tư thục phi lợi nhuận Fulbright Việt Nam được trao cho cựu Thượng nghị sỹ Bob Kerrey ngày 25/05/2016 Hình: Internet
Ngày 15/05/2016, Bộ
trưởng Ngoại giao Mỹ John Kerry đã có chuyến sang thăm và làm việc
với phía Việt Nam, chuẩn bị cho chuyến thăm của tổng thống Obama, ngày
22/05/2016.
Ngoài ba nội dung
được tập trung quan tâm là việc đối phó với xung đột Biển Đông, việc
gỡ bỏ lệnh cấm vận và việc phê chuẩn TPP, có hai nội dung đặc biệt,
nhưng báo chí chỉ đưa lướt qua, không kèm bình luận, khiến dư luận
không quan tâm. Đó là Hiệp định khung cho Chương trình Hoà bình, và
Quyết định thành lập Fulbright Việt Nam. Hai nội dung này là kết quả
những đàm phán dai dẳng suốt hai mươi năm bình thường hóa quan hệ,
được coi là những bước triển khai cụ thể của chương trình phát triển
quan hệ hợp tác hai nước, đắt đầu những bước đi thực chất, phản ánh
việc gạt bỏ những nghi ngại cuối cùng của Hà Nội đối với Mỹ.
Sau đó một ngày,
ngày 16 tháng 5 năm 2016, Trường Đại học Fulbright Việt Nam đã chính thức nhận
quyết định thành lập của Thủ tướng Chính phủ theo quyết định số 819/QĐ-TTg do
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam ký.
Một ngày sau khi
tổng thống Obama tới Hà nội và tuyên bố gỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí
sát thương, sáng 24.5/2016, Phó thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh
và Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đã chứng kiến lễ ký kết Hiệp định khung cho
Chương trình Hoà bình, về việc VN đồng ý cho phép tình nguyện viên Mỹ của
Peace Corps dạy tiếng Anh tại Hà Nội và Sài Gòn như những sứ giả đầu tiên
trong Chương trình Hòa bình Việt Mỹ.
Và sáng ngày 25.5/2016, dưới
sự chứng kiến của cả John Kerry và Bí thư Đinh La Thăng, Chủ tịch UBND
Tp. Sài Gòn Nguyễn Thành Phong đã trao quyết định thành lập Trường ĐH Fulbright
VN (FUV) cho Chủ tịch Hội đồng tín thác FUV Bob Kerrey, trường Đại học tư
thục Việt Nam đầu tiên được tổ chức theo mô thức độc lập tài chính
phi lợi nhuận và độc lập về nội dung giảng dạy theo các chuẩn mực
quốc tế cao nhất.
Quyết định bổ
nhiệm ông Bob Kerrey, nguyên cựu chiến binh Mỹ tại Việt Nam, nguyên tác
giả của vụ thảm sát Thạnh Phong vào tháng 2-1969, nguyên thượng nghị sỹ
bang Nebraska, nguyên hiệu trưởng trường New School NewYork làm Chủ tịch
Hội đồng tín thác FUV đã gây tranh cãi. Ở phía ủng hộ, có cả trăm
ý kiến cá nhân, phần lớn là những trí thức có uy tín, như Giáo sư
Chu Hảo, nhà văn Nguyên Ngọc, nhà giáo Phạm Thị Ly, sử gia Dương Trung
Quốc, GS Nguyễn Minh Thuyết... còn nếu xem trên Facebook thì có hàng
ngàn ý kiến từ nhiều góc nhìn, của rất nhiều tầng lớp quần chúng
khác nhau. Phía phản đối ông Bob Kerey ngược lại, chỉ có vài người,
là bà Tôn Nữ Thị Ninh và ông nhà văn Nguyễn Văn Thọ. Ông Thọ sau khi
lỡ lời, mặc dù không cải chính, không thấy ông nói gì thêm, nhưng
người ta thấy lạ một điều là sau cái bài viết với giọng khiêu
khích, "Lẽ nào nước Mỹ không còn ai ngoài Bob Kerrey?" bà
Ninh lại phóng tiếp bức “Thư ngỏ gửi người
Việt Nam và những người bạn Mỹ”, trong đó người ta bảo là
bà bịa ra cái thông tin rằng số tiền 20 triệu đôla tiền vốn ban đầu
của FUV “là món tiền chính quyền Sài Gòn nợ chính quyền Hoa Kỳ trước
1975(?), mà nhà nước CHXHCN Việt Nam thống nhất nhận trả phía Mỹ theo thông lệ
quốc tế (?). Nói cách khác, thực chất đây là việc chuyển một món tiền có sẵn -
từ mục đích cấp học bổng hàng năm sang mục đích tài trợ ban đầu cho FUV - chứ
không phải do BK mới gây quỹ đặc biệt cho FUV”. BáoVnexpresse.net
bác bỏ: “Hồi tháng 6/2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
đồng ý chủ trương đầu tư dự án FUV. Tháng 12/2014, Quốc hội Mỹ phê chuẩn thành
luật, cho phép chính phủ Mỹ tài trợ khoảng 20 triệu USD cho dự án FUV trong
giai đoạn đầu tiên”, còn chính Bob Kerrey thì nói: “Năm ngoái, nỗ lực của chúng tôi đã thành công khi Quốc hội quyết
định tài trợ một khoản gần 20 triệu USD để xây dựng FUV, còn phía chính phủ
Việt Nam dành cho trường khu đất. ”
Sau khi ông Đinh La
Thăng, ủy viên bộ chính trị, bí thư Sài Gòn, có ý dẹp dư luận bằng
ý kiến “vượt lên hận thù chúng ta mạnh mẽ hơn”, đặc
biệt là đối diện với sự khiêu khích lộ liễu của bà Ninh, ngày
07/06/2016, tại New York, ông Bob Kerrey đã công bố quyết định không từ
chức. Dư luận không còn ai nói tới chuyện chọn hay không chọn. Riêng
bà Tôn Nữ Thị Ninh vẫn tiếp tục bị dư luận ném đá, thậm chí không
chỉ có đá mà còn cả cà chua thối.
Có lẽ không có gì
“dại” hơn những gì bà Tôn Nữ Thị
Ninh đã làm. Không
ai hiểu tại sao bà công khai và đích danh công kích cá nhân ông Bob
Kerrey, và cái khó hiểu nhất là bà lại nhân danh
lòng “nhân ái và danh dự trí thức”, cái mà ở chính bà, người ta đã
thấy là thiếu nhất.
Người ta đã chứng
kiến ở bà một trí thức săn đuổi địa vị và tìm kiếm vinh quang như
thế nào. Từ một lưu học sinh cuả chế độ Việt Nam Cộng Hoà, không
biết bằng cách nào, bà được tuyển dụng làm phiên dịch viên cho nguyên
bộ trưởng ngoại giao Chính phủ lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam
Nguyễn Thị Bình tại hội nghị Paris. Rồi từ một Phó Khoa của Phân khoa
Anh ngữ, Đại học Sư phạm Sài Gòn năm 1972, bà lọt vào mắt ông Xuân Thuỷ,
uỷ viên bộ chính trị, bộ trưởng ngoại giao chính phủ Việt Nam dân
chủ cộng hoà bắc Việt, để rồi sau đó có thể trở thành một đại sứ
đặc mệnh toàn quyền của chính phủ Việt Nam XHCN tại Bỉ, bên cạnh
Liên Hiệp châu Âu. Với lòng “tự trọng danh dự trí thức”, bà đã có
thể chiếm được sự tin cậy cuả cả hai chế độ đối kháng không đội
chung trời của nhau, mà không bị gọi là tráo trở.
Khi tự cho mình
quyền nhân danh lòng nhân đạo để nói “Việc ông hối hận về vai trò trong
vụ thảm sát Thạnh Phong tôi không thể biết và chỉ có mình ông Kerrey biết.
Không thể coi việc giữ vị trí lãnh đạo của đại học nhiều tham vọng như ĐH
Fulbright là cách sửa sai cho những hành động trong quá khứ”, bà
đã buộc người ta phải hỏi lại bà rằng: nếu thảm sát là một vụ gây
ra nhiều cái chết oan uổng cho những người vô tội, thì cho dù không
thể phủ nhận tội lỗi cuả mình, Bob có thể chỉ là kẻ bị lừa. Những
thủ lĩnh cộng sản đã đẩy dân ra phía trước để lãnh đạn cho họ, như
chính nhà văn Nguyên Ngọc thú nhận “chúng tôi vẫn từng “nấp” trong
nhân dân vô tội, để họ có thể cùng chết với chúng tôi” (thực
ra ông muốn nói rằng “để họ chết thay cho chúng tôi”), cách mạng vẫn
dùng dân như một lá chắn, vưà làm bia đỡ đạn sống cho cách mạng vừa
lấy cớ buộc tội đối phương.
Bà không thể im
lặng để chối bỏ một sự thật, rằng không có cuộc thảm sát nào lớn hơn
cuộc cải cách ruộng đất mà chính quyền cộng sản tiến hành suốt
những năm 1954-1956, khiến 172.008 bị giết oan uổng một cách thô bạo. Không có cuộc thảm
sát nào lớn hơn là cuộc tổng tấn công mậu thân 1968, chính quyền
cộng sản cố tình đẩy 277.000 người vô tội vào một cuộc thử nghiệm
đẫm máu, khiến 44.842 chết, 61.267 bị thương, 4.511 mất tích.
Và lớn hơn, cuộc chiến tranh hai miền đã khiến người Việt giết lẫn
nhau suốt 30 năm làm cho hơn 6 triệu người chết, trong đó hơn 4 triệu
dân thường. Ai đã gây ra vụ thảm sát nồi da nấu thịt đó. Người Mỹ
không đến để chiếm đất Việt nam. Người Mỹ chỉ đến để chiến đấu
cùng với một nửa người Việt vì một “nỗi lo sợ cộng sản” *. Cá
chết trắng một dải bờ biển từ Hà Tĩnh tới Thừa Thiên Huế, đe doạ
thảm họa cho hàng triệu con người đói khát vô tội, mất nghề nghiệp,
mất nguồn sống, bà và những trí thức như bà đang ở đâu, sao không
thấy bà lên giọng “cao thượng” để giúp đỡ những người không có phương
tiện gì ngoài tiếng nói, xuống đường ôn hoà chỉ để đòi quyền được
biết, quyền được sống trong sạch, vẫn bị chính quyền đàn áp không
thương tiếc bất chấp cả phụ nữ và trẻ em. Lịch sử sẽ có lúc quay
lại để phán xét.
Khi bà công kích đích danh ông Bob
Kerrey, khích ông Kerrey từ chức Chủ tịch Hội đồng tín
thác vì “danh dự và lòng tự trọng” và khi bà đặt ra câu hỏi “chẳng nhẽ nước Mỹ không còn ai ngoài Bob Kerrey”, hình như bà muốn nhắc
mọi người rằng, tại sao không ai thấy sự có mặt của bà, bà thừa
sức thay thế ông Kerrey?.
Bà từng là nhà
giáo, từng là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Bỉ bên cạnh Liên hiệp
châu Âu, từng làm trưởng ban đối ngoại Quốc hội, bà từng là chủ
tịch hội đồng quản trị dự án Đại học tư thục Trí Việt. Nhưng khi
còn chưa đã cơn khát vinh quang thì buộc phải về hưu, bà uất ức, cay
đắng: "quy định tuổi nghỉ hưu 55 như hiện nay, chị em chưa kịp cất
cánh thì đã phải hạ cánh". Bà đang còn muốn bay.
Năm 2007, nghỉ hưu,
bà lập ra dự án Đại học Trí Việt, với nung nấu trở thành chủ tịch
Đại học tư thục đầu tiên của nền giáo dục Việt. Nhưng sự thèm khát
vinh quang đã làm cho bạn bè và đồng nghiệp của bà hoảng sợ. Bốn
năm vận động, bà không xin được đất, không một cá nhân, một cơ quan tổ
chức nào, cả trong nước lẫn quốc tế chịu góp vốn. Bà đành chấp
nhận thất bại, buộc phải giải tán hội đồng sáng lập và tuyên bố
huỷ bỏ dự án. Tuy vậy, “tâm huyết” của bà với nền Đại học Việt vẫn
chưa tắt trong con người bà. Bà liếc sang Fulbright với cả sự thèm
khát và ganh ghét. Đã có lúc người ta nghĩ đến bà, có một vài
người Mỹ bạn quen cũ đã góp lời. Nhưng có vẻ như người Mỹ đã hoảng
sợ sau khi nghe lời tuyên bố của bà tại buổi họp báo Câu lạc bộ Báo chí
Quốc gia Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 2004:"Trong gia đình chúng tôi
có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng
trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm
đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi".
Họ hoảng sợ là
đúng, vì nếu bà là chủ tịch Đại học thì những quan chức do bà đào
tạo ra sẽ chỉ là những quan phụ mẫu, coi dân như con cái trong nhà
hết, và nếu chúng hư đốn thì phải đóng cửa lại mà trừng trị. Bà
là một đặc trưng của tư tưởng chuyên chế phong kiến, của thứ tư duy
kiểu nhân quyền xã hội chủ nghĩa. Bà sẽ là kẻ phá hoại đáng sợ
nhất, phản bội lại tư tưởng giáo dục và đào tạo độc lập của
Fulbright. Bob Kerrey và những người bạn của ông, thượng nghị sỹ John
McCain, bộ trưởng ngoại giao John Kerry, Gs. Thomas J. Valelly theo đuổi
Dự án từ hơn hai mươi năm đương nhiên không phải để tạo ra những quan
lại có tư tưởng nô lệ cho quyền lực, cuả thèm khát chức vị và hư
danh.
Sự thất bại cuả
bà Tôn Nữ Thị Ninh trước dư luận cho thấy một thái độ của trí thức
Việt không còn như trước. Những kẻ chuyên kinh doanh lòng trung thành với
chế độ và buôn bán lập trường đã không còn che được mắt xã hội, và
không còn kiếm lời được nữa.
*
Nhưng nếu sự kiện
ra đời của FUV lại chuyển đổi thành sự cãi lộn xung quanh chuyện danh
dự hay cao thượng của bà Ninh thì dư luận đã lạc hướng.
Ít ra người ta
cũng tự hỏi,
những việc này chỉ đơn thuần là động cơ cá nhân bà Ninh hay phía sau
bà có thế lực nào. Vietnamnet.vn là tờ báo duy nhất đăng tải cả
hai lần, hai bài viết ngược dòng cuả̉ bà Ninh, có phải là tình cờ
hay có sự chỉ đạo của ai. Sau vài ngày, bài viết đầu bị xóa, nhưng
bài “thư ngỏ” được giữ lại muộn hơn, và hiện cũng chỉ còn trên các
báo mạng khác, Vietnamnet.vn cũng đã gỡ nốt.
Từ sau khi tổng
biên tập Nguyễn Anh Tuấn phải buộc ra đi sau một loạt phóng sự điều
tra đất rừng đầu nguồn dính đến Innov Green Hồng Kông, Vietnamnet.vn
hiện nay không khác gì Vnexpresse.net, nghĩa là chỉ là cái loa không
hồn, không đầu. Nếu sự thật phía sau, là Vietnamnet.vn đã bị điều
khiển bởi một bàn tay nào đó, thì hiển nhiên bàn tay đó thân Trung cộng.
Và chuyện bà Ninh chỉ là chuyện phá thối.
Bắt đầu từ quỹ học bổng Fulbright do
thượng nghị sỹ, cựu chiến binh John Kerry vận động.
Bước đột phá đầu tiên của nỗ lực này là trong dự luật ngân sách 1991 khi lần
đầu tiên 300 ngàn USD để cấp học bổng cho sinh viên VN (Harvard sau đó góp thêm
300 ngàn USD) được đưa vào. Đột phá được thực hiện bởi John Kerry cùng cùng với
sự hỗ trợ của các cựu binh như John McCain, Richard Kessler,...
Năm 1992, chương trình học bổng Fulbright,
dưới sự dẫn dắt của Thomas Vallely - một cựu binh Việt Nam khác - bắt đầu đi
vào hoạt động. Từ số tiền này, những nhóm sinh viên đầu tiên của chương trình
Fulbright như Phạm Bình Minh, Nguyễn Thiện Nhân, Cao Đức Phát,... đã được đưa
sang Mỹ để học tại những ĐH hàng đầu.
Fulbright trở thành một Dự án Đại
học tư thục Việt Nam từ năm 1994 kết quả của sự hợp tác giữa Trường
đại học Kinh tế Sài Gòn và Trường Havard Kennedy.
Ngân sách do Vụ Giáo dục và văn hoá bộ Ngoại giao Mỹ tài trợ. Trong
thời gian vận động để có giấy phép đầu tư chính thức, dự án có tên
là Chương Trình Giảng Dạy Kinh Tế Fullbright, đã hoạt động hơn 12 năm trong
lĩnh vực Giáo dục và đào tạo. Hiện đang được điều hành bởi ông bà Benjamin
Haxton Wilkinson, có địa điểm tại địa chỉ: 232/6 Võ Thị Sáu, Quận 3, Sài
Gòn, Việt Nam.
Dự án là một trong những nội dung
được bàn thảo trong các hoạt động chuẩn bị cho việc lý kết Hiệp
định đối tác toàn diện Việt Mỹ trong chuyến thăm chính thức của chủ
tịch Trương Tấn Sang năm 2013. Dự án tiếp tục được ủng
hộ và có những cố gắng rất lớn từ cả hai chính phủ, đặc biệt là
bộ ngoại giao hai nước.
Những rào cản thiếu sự thông hiểu từ phía chính phủ Việt Nam chính
là nguyên tắc độc lập về tài chính, độc lập về nội dung giảng dạy
và đào tạo trên nền tảng giáo dục khai phóng.
Những môn học chính được giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh. Giáo
trình là sự kết hợp với phương pháp giảng dạy theo nhóm giảng viên,
không theo giáo trình cố định, soạn sẵn. Tuy nhiên, tất cả những trở
ngại đã được vượt qua trong chuyến thăm của Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng tháng 7/2015, sau khi Quốc hội Mỹ đồng ý tài trợ khoảng 20
triệu đôla, tháng 4/2014.
Giấy phép Đại học Fulbright Việt Nam
được cấp ngày 16/05/2016.
Quyết định thành lập Đại học Tư thục
phi lợi nhuận Fulbright Việt Nam được trao cho cựu Thượng nghị sỹ Bob
Kerrey ngày 25/05/2016 trong chuyến thăm Việt Nam của tổng thống Mỹ
Obama tại Sài Gòn. FUV
có trụ sở chính tại Khu công nghệ cao của Sài Gòn với diện tích đất 15 ha,
là trường Đại học do Quỹ tín thác sáng kiến ĐH Việt Nam (TUIV) đầu tư bằng
100% vốn nước ngoài.
Theo chương trình
FUV sẽ là một trung tâm giáo dục đào tạo đạt chuẩn quốc tế đầu tiên
tại khu vực Đông nam Á theo mô hình khai phóng mở còn rất mới đối
với thế giới.
Tuy vậy, bên cạnh
những hy vọng tràn trề, những người mắc bệnh hoài nghi vẫn mơ hồ
một điều gì đấy, hình như không có thật, hay một cái gì quá tốt
đẹp đã đến một cách vội vã, vừa như một phép mầu, vừa mong manh dễ
vỡ.
Nhất là khi bên
cạnh nhhững cái tên Mỹ, như Bob Kerrey, Thomas Vallely... lại có những
cái tên gây thắc mắc không có lời giải đáp, chẳng hạn như Henry Nguyễn Bảo Hoàng, con rể nguyên thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng, giữ chức phó chủ tịch hội đồng tín thác,
tức là nhân vật thứ hai sau Bob Kerrey, cùng với sự có
mặt của Nguyễn Thanh Phượng trong lễ trao quyết định thành lập FUV
ngày 25/05/2016, không khỏi gây lo sợ cho dư luận. Sự có mặt của cha
con ông Dũng luôn gắn với sự lũng đoạn của âm mưu và lòng tham. Tại
sao, một con người, một gia đình thuộc loại vơ bèo vạt tép, không cái
gì ăn được mà không ăn, không cái gì có lãi mà không đầu tư, lại
không buông tha cả cái trường Đại học tư thục phi lợi nhuận Fulbright?
Họ rửa tiền? Họ rót tiền bất chính vào Fulbright để nhân danh từ
thiện, khoác lên những đồng tiền nhem nhuốc của họ một thứ danh
nghĩa sạch sẽ? Hay họ đã hết thời làm mưa làm gíó, đang đi tìm chỗ
trú thân? Dù là gì thì khi Fulbright đi với đi với ma, người ta phải
hỏi liệu chiếc áo mà FUV sẽ khoác, có phải là áo giấy? Tiền của
Quỹ đầu tư Bản Việt, mà Nguyễn Thanh Phượng là Chủ tịch sẽ từ từ
mua hết cổ phần của FUV, và Henry Nguyễn Bảo Hoàng sẽ trở thành Chủ
tịch Hội đồng Tín thác. Trường Đại Học Fulbright đổi tên thành
Trường Thanh Phượng?!.
Một cái tên khác
nữa là Đàm Bích Thuỷ, nguyên Tổng Giám đốc
Tập đoàn ANZ, có tên trong danh sách Hồ sơ Panama, đang đảm nhiệm chức
Hiệu trưởng FUV.
Một nhà buôn tham
lam Nguyễn Bảo Hoàng sẽ phụ trách việc gây quỹ, một chủ ngành ngân
hàng có tài xoay tiền Đàm Bích Thuỷ làm công việc giáo dục và đào
tạo. Khó có thể tiên liệu tương lai của
FUV. Nếu
ở chỗ nào cũng có mặt mafia và nếu mafia đã trở thành một bộ phận
hữu cơ của chế độ, thì một định chế không mafia sẽ tất yếu sụp
đổ.?
Cùng với việc ký kết Hiệp định TPP,
phát triển liên kết Quốc phòng sau dỡ bỏ cấm vận vũ khí, Peace Corps
và FUV được xem là hai mũi nhọn đầu tiên, thâm nhập vào môi trường xã
hội Việt Nam.
Việc chính thức
cho ra đời hai định chế này, một mặt phản ánh những nghi ngại của Hà
Nội quan niệm Mỹ như một thể chế chính trị đối kháng, như kẻ thù
của chế độ có thể đã được gỡ bỏ, một mặt khác, sự nhượng bộ của
chính quyền Hà Nội phản ánh xu hướng chấp nhận một sự chuyển hóa
cơ cấu xã hội từ bên trong.
Đây có thể là một giai đoạn chuyển
tiếp, một dạng quá độ đầy mâu thuẫn và đầy trở
ngại, nhưng chứa đựng những mầm mống thay đổi căn bản?
Quá trình sáp lại
gần nhau đầy nghi kỵ để đạt tới hợp tác toàn diện hôm nay và đang
hiện hình một hợp tác đối tác chiến lược có thể trong tương lai
không xa cho thấy một vài cảm nhận:
1- Chính quyền Mỹ
dù khác về bản chất thể chế chính trị, không còn là đối tượng thù
địch. Trong khi vẫn còn là nhân tố nghi ngại cho sự tồn vong của chế
độ độc đảng, Mỹ là nhân tố quyết định tới chủ quyền quốc gia, tới
phát triển thịnh vượng và văn minh xã hội.
2- Không có phe thân
Trung cộng trong nội bộ Đảng cộng sản từ sau đại hội XII.
3- Chính sách cân
bằng Trung-Mỹ chủ yếu nhằm mục đích tránh một khủng hoảng có tính
khủng bố và áp lực xung đột chiến tranh cục bộ đến từ Bắc Kinh,
trong khi Hà Nội chưa chuẩn bị kịp các điều kiện đối phó cần thiết,
không phải là chính sách vì sự duy trì thân thiện.
4- Hiện trong nội bộ
đảng cộng sản Việt Nam chỉ còn hai quan điểm khác nhau,
quan điểm tự nguyện cải cách theo hướng dân chủ hoá từng bước; và
quan điểm tiếp tục duy trì chế độ độc đảng bằng cách tận dụng mọi
cơ hội để tăng trưởng kinh tế.
Quan điểm tự
nguyện cải cách ủng hộ hoàn toàn các quyết định ký kết TPP, quyết
định dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí, quyết định ký kết Hiệp định khung
cho chương trình Hoà Bình Việt Mỹ, và quyết định thành lập Đại học
FUV. Lực lượng này xem các định chế trên như những công cụ giúp xã
hội Việt Nam thay đổi dần từng bước từ bên trong.
Ngược lại, quan điểm duy trì chế
độ độc đảng tố cáo các định chế trên là công cụ diễn biến hoà
bình, là vũ khí cuả chủ nghĩa tư bản Mỹ nhằm xoá bỏ chế độ cộng
sản, tước bỏ thành quả của cách mạng vô sản Việt
Nam, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn chủ nghĩa cộng sản quốc tế. Lực
lượng này, đương nhiên là những nhân vật giáo điều, bảo thủ trong
đảng, trung thành mù quáng với tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin. Lực
lượng này buộc phải bám víu vào Trung cộng và không tránh được bị
Trung cộng lợi dụng.
Dù bề ngoài,
người ta đang cố sức che đậy những khuyết tật, cố dựng lên một hình
hài đồ sộ và màu mè, nhưng không có cách gì che chắn được những đổ
vỡ. Cuộc bầu cử quốc hội XIV đã thất bại, một số các cơ cấu của
Quốc hội sẽ buộc phải chắp vá. Đảng viên đang bỏ đảng và từ chối
sinh hoạt với con số tăng lên từng ngày. Những sạt lở từng mảng không
thể chống đỡ đang bắt đầu. Những người còn chút tỉnh táo, khôn ngoan
chắc cũng tự tìm ra cách hành xử thích ứng.
Paris 13/06/2016