01.04.2017

Trung cộng thật sự muốn gì ở Biển Đông? - Bill Hayton

„Theo quan điểm của Bắc Kinh, những bước lấn tới của họ ở biển Đông là biện minh được bởi vì họ đang đòi lại lãnh thổ “bị mất“...
Các tranh chấp chỉ có thể được giải quyết thật sự qua việc làm suy yếu ý thức chính đáng của Trung cộng và điều đó đòi hỏi phải vạch trần việc sử dụng gian lận các bằng chứng lịch sử và thách thức phiên bản lịch sử sai lệch của họ.“

Trung cộng thật sự muốn gì ở Biển Đông?

Bill Hayton (Nikkei Asian Review)
Song Phan dịch
Biển Đông. Ảnh: Reuters

Huyền thoại lịch sử, chiến lược quốc phòng và lợi ích kinh tế, tất cả đều có vai trò

Câu hỏi Trung cộng thực sự muốn gì ở biển Đông ít được nghiên cứu một cách đáng ngạc nhiên ở phương Tây. Có quá nhiều nhà phân tích quốc tế dường như bằng lòng khi đưa ra các giả định về động cơ chiến lược và chiến thuật của Trung cộng mà không đối chiếu các tuyên bố hay tài liệu của Trung cộng.


Mối quan tâm của các chiến lược gia Mỹ, đặc biệt về tự do đi lại, an toàn của các đồng minh và duy trì một trật tự dựa trên luật pháp chi phối hầu hết các bài viết/ sách vở tiếng Anh về tranh chấp. Họ rất thường quy chiếu cùng những động lực đó lên “thứ khác” và diễn giải các hành động của Trung cộng trên cơ sở đó.

Một số tài liệu chính thức của Trung cộng có thể đọc được, vẽ ra một hình ảnh khác biệt. Sách trắng của Trung cộng về chiến lược quân sự công bố tháng 5 năm 2015, xác định các mối đe dọa lớn nhất đối với Trung cộng là “chủ nghĩa bá quyền, chính trị quyền lực và chủ nghĩa can thiệp mới, và nêu rằng, ưu tiên hàng đầu của quân đội là “bảo vệ sự thống nhất quốc gia [của Trung cộng], toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của sự phát triển.”

Trong khi các nhà phân tích Mỹ tập trung vào quyền đi lại trên biển Đông như là một phần của “khu vực dùng chung của toàn cầu”, Trung cộng tập trung vào việc bảo vệ biển Đông như là một phần của lãnh thổ vốn có của Trung cộng. Nghiên cứu của tôi dấy lên mối nghi ngờ nghiêm trọng về các kể lể lịch sử này, nhưng các nhà phân tích phương Tây cần nghiêm túc hơn nữa, nếu họ muốn hiểu những gì đang thúc đẩy các tranh chấp ở đó.
Mặc dù tiến trình chính trị mờ đục của Trung cộng gây khó khăn cho việc đánh giá cách lãnh đạo của quốc gia “thật sự” coi biển Đông như thế nào, các văn bản và các tuyên bố chính thức chắc chắn cung cấp một số hiểu biết sâu sắc. Như Ryan Martinson của trường Cao đảng Hải chiến Hoa Kỳ nhận xét, hồi tháng 6 năm 2014 Chủ tịch Trung cộng Tập Cận Bình khẳng định rằng, Trung cộng phải đặt ưu tiên cao nhất vào việc xây dựng “một bức tường bất khả xâm phạm đối với việc bảo vệ biên giới và đại dương.”

Michael Swaine, thuộc Quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc tế, đã lưu ý rằng, Tập Cận Bình đã nhiều lần tập trung vào “sự cần thiết phải duy trì vững chắc chủ quyền lãnh thổ của Trung cộng, các quyền và lợi ích trên biển và đoàn kết dân tộc, và xử lý đúng đắn các tranh chấp lãnh thổ và hải đảo”.

Danh sách của đô đốc

Trong hồi ký năm 2004 của mình, Đô đốc Lưu Hoa Thanh (Liu Huaqing), được xem như là cha đẻ của hải quân Trung cộng hiện đại, đã liệt kê 6 mục tiêu về biển trong chiến lược của ông về “phòng thủ tích cực vùng biển gần”, bao gồm việc tái thống nhất Đài Loan với đại lục; lấy lại lãnh thổ biển bị mất và có tranh chấp; bảo vệ tài nguyên biển quốc gia; bảo đảm các tuyến đường liên lạc chiến lược của Trung cộng; ngăn cản hoặc đánh bại bất kỳ cuộc tấn công bằng đường biển nào của nước ngoài; và xây dựng rào cản hạt nhân chiến lược đủ tầm.

Điều có vẻ có ý nghĩa nhất là ba mục tiêu đầu liên quan đến việc “lấy lại” lãnh thổ và kiểm soát tài nguyên biển quốc gia. Đây là bằng chứng cho sự ám ảnh lâu dài của lãnh đạo Trung cộng với việc làm chấm dứt mối “quốc sỉ” của đất nước.

Mặc dù vậy, phân tích quốc tế về các hành động của Trung cộng tại biển Đông đã chú trọng quá nhiều vào ba mục tiêu sau – các chủ đề cổ điển của các nghiên cứu hải quân truyền thống và quan hệ quốc tế – nhưng không đúng mức cho ba mục tiêu đầu. Những phân tích như vậy không hiểu được những động cơ chính thúc đẩy chính sách của Trung cộng.

Hành động của Trung cộng được dựa vào cảm nhận về quyền nước này được làm chủ (sense of national entitlement) đối với các đảo, các rạn san hô và vùng biển của biển Đông, dựa trên các tài liệu lịch sử khu vực theo chủ nghĩa dân tộc. Cảm nhận về quyền được làm chủ này có thể dẫn Trung cộng tới việc thực hiện các động thái quyết đoán hơn trong khu vực trong những năm tới – việc sáp nhập mỗi lần một ít các khu vực chiến lược và có nhiều tài nguyên – sẽ dẫn tới đối đầu nhiều nữa.

Những cân nhắc chiến lược rõ ràng là rất quan trọng đối với Trung cộng. Đối với một nước phụ thuộc vào thương mại, việc tiếp cận đại dương mở thông qua biển Đông là vấn đề có tính sống còn của quốc gia. Nhìn qua ống kính này, có thể dễ dàng lập luận rằng, việc xây dựng đảo của Trung cộng là một phản ứng phòng thủ trước một chiến lược chiến tranh có thể có trong tương lai của quân đội Mỹ ngăn chận con đường thương mại trên biển.
Trung cộng đã là nước chuyên nhập khẩu lương thực thực phẩm từ năm 2007, và năm 2013 Trung cộng đã vượt Mỹ để trở thành nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới. Ngoại thương chiếm khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung cộng, tuy nhiên nước này không có đường ra biển mà không bị cản trở.

Một yếu tố thứ hai cho chương trình “phòng vệ” này là tăng cường chiến lược “chống truy cập / từ chối khu vực” đối với các nỗ lực của Hoa Kỳ trong việc hậu thuẫn Đài Loan trong trường hợp có xung đột. Các căn cứ trên đảo mới của Trung cộng gia tăng lớn việc giám sát qua các hệ thống cảnh báo sớm của Trung cộng, tạo điều kiện dễ dàng theo dõi các mục tiêu tiềm năng hơn và cung cấp những khu trú ẩn phân tán cho tàu chiến và máy bay.

Yếu tố thứ ba là Trung cộng dự kiến sẽ sử dụng các vùng nước sâu của biển Đông làm căn cứ cho tàu ngầm tên lửa đạn đạo mới, lớp Jin [Tấn]. Sẽ rất dễ dàng để Trung cộng xây dựng “pháo đài” cho những tàu ngầm này nếu họ có thể kiểm soát bãi cạn Scarborough.

Việc lắp đặt “các trại trên không” lớn và tháp radar trên các đảo nhân tạo mới mà Trung cộng đang xây dựng, cho thấy chúng sẽ được sử dụng làm cơ sở cho các hoạt động giám sát trên không, trên biển và dưới mặt biển, nhằm tăng cường khả năng bảo vệ tích hợp cho tàu ngầm bên trong pháo đài. Việc xây dựng đảo của Trung cộng cũng phản ánh mục tiêu ngăn chặn không cho các bên yêu sách Đông Nam Á thực hiện bất kỳ hành động nào có thể ngăn chặn Trung cộng khai thác tài nguyên thiên nhiên ở đó.

Người ta đã lập luận rằng hành động của Trung cộng ở biển Đông là kết quả của một chiến lược lớn, được cấp cao nhất của chính hệ thống chính trị sau khi Tập Cận Bình trở thành lãnh đạo của Trung cộng vào năm 2012, cho phép. Nhưng có rất nhiều dấu hiệu cho thấy, một số quan chức Trung cộng ủng hộ một chính sách quyết đoán hơn ngay trước khi Tập Cận Bình nắm quyền.

Điều này dường như phản ánh sự cạnh tranh giữa nhiều bên, trong đó có lực lượng vũ trang trên biển, các ngành công nghiệp đánh bắt cá và các công ty năng lượng nhà nước, vốn được hưởng lợi từ một chính sách biển Đông quyết đoán. Mặc dù những nhóm vận động này đôi lúc đấu đá lẫn nhau, nhưng sức mạnh của các nhóm lợi ích đó rất to lớn khi họ bắt tay với nhau. Một điều mà tất cả bọn họ có thể đều đồng ý là, dù vì lý do dân tộc, an ninh, lợi nhuận hay việc làm, Trung cộng phải tiếp cận được không gian và các nguồn lực của biển Đông.

Quyền “lịch sử”

Bên dưới các động cơ “phòng thủ” và quan liêu là một phiên bản lịch sử đặc biệt, sô vanh nước lớn. Mặc dù có nhiều bằng chứng cho thấy ngược lại, quan điểm chính thức của Trung cộng là chỉ có các tàu thuyền Trung cộng từng sử dụng biển Đông xưa nay và do đó Trung cộng có “quyền lịch sử” đối với các vùng biển bên trong đường chữ U. Hồi tháng 7 năm 2016, Tòa Trọng tài Quốc tế ở The Hague kết luận rằng, không có cơ sở chính đáng để Trung cộng khẳng định “quyền lịch sử”, tuy nhiên, lập luận này tiếp tục là nền tảng cho cuộc xung đột đang diễn ra giữa Trung cộng và các nước Đông Nam Á láng giềng.

Nghiên cứu gợi ra mạnh mẽ rằng, yêu sách của Trung cộng đối với biển Đông đã được phát triển trong nửa đầu thế kỷ 20, như là một phản ứng chính trị trong nước để chống lại chủ nghĩa đế quốc Nhật và châu Âu. Nó xuất hiện ở các giai đoạn trong thời kỳ khủng hoảng năm 1909, 1933 và Thế chiến II. Sự phát triển của yêu sách đó, một phần, là một hành động kháng cự có tính biếu tượng và chính khía cạnh này trong lịch sử của họ vẫn làm cho nó thành một vấn đề đầy cảm xúc hiện nay.

Mỹ và các chính phủ khác đã khôn ngoan giữ trung lập về vấn đề lãnh thổ. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là họ nên bỏ qua nó. Nếu các nhà phân tích bỏ bớt các yếu tố lãnh thổ và chỉ tập trung vào các câu hỏi về chiến lược lớn thì họ sẽ đi tới việc trả lời câu hỏi sai, làm vấn đề biển Đông càng tệ hại hơn. Kết quả cuối cùng, như khu vực đã nhiều lần nhìn thấy, là tranh chấp. Tranh chấp này không thể giải quyết được bằng các biện pháp xây dựng lòng tin hoặc việc phô trương lực lượng hải quân. Nguyên nhân gốc rễ của cảm nhận về quyền được làm chủ của Trung cộng cần phải được giải quyết.

Chính sách của Trung cộng đối với biển Đông phản ánh một cảm xúc bất bình mà những đấu thủ khác trong các tranh chấp thường không đánh giá cao. Trung cộng tin rằng họ đang chỉnh lại cho đúng những sai trái gây ra cho họ trong những thập kỷ trước. Theo quan điểm của Bắc Kinh, những bước lấn tới của họ ở biển Đông là biện minh được bởi vì họ đang đòi lại lãnh thổ “bị mất”.

Hoang tưởng lịch sử

Bắc Kinh tin rằng bất kỳ hành động của một cường quốc nước ngoài cố cản trở việc thống nhất lãnh thổ quốc gia – dù đó là một cuộc tuần tra hải quân hay một toà trọng tài quốc tế, phải bị chống lại, bởi vì đó chỉ đơn giản là một màn diễn khác trong một lịch sử lâu dài về mưu toan của nước ngoài chia cắt tổ quốc Trung cộng.

Mặc dù những kể lể lịch sử chính thức của Trung cộng rõ ràng là có nhiều vấn đề, điều quan trọng là phải nhận ra rằng ý thức về sự chính đáng mà nó tạo ra cho việc hoạch định chính sách của Trung cộng có thể dẫn đến xung đột hơn nữa. Nếu các nhà hoạch định chính sách ở Hoa Kỳ và những nơi khác không nhận ra được sức mạnh thúc đẩy của những kể lể lịch sử và tính mệnh lệnh về lãnh thổ của Trung cộng, thì họ sẽ không hiểu được các mục tiêu của Trung cộng.

Cả ngoại giao lẫn đối đầu đều sẽ không làm giảm động lực thúc đẩy phía sau các hành động của Trung cộng ở biển Đông. Mặc dù việc sử dụng vũ lực có thể cản trở những bước lấn tới của Trung cộng, nó cũng sẽ làm tăng cảm giác thất vọng và kích động những đòi hỏi bên trong Trung cộng về một phản ứng quyết đoán hơn. Các tranh chấp chỉ có thể được giải quyết thật sự qua việc làm suy yếu ý thức chính đáng của Trung cộng và điều đó đòi hỏi phải vạch trần việc sử dụng gian lận các bằng chứng lịch sử và thách thức phiên bản lịch sử sai lệch của họ.

Lý do chiến lược của việc Trung cộng duy trì một sự hiện diện mạnh mẽ ở biển Đông – bảo vệ bờ biển, các tuyến đường biển và ngăn chặn hạt nhân – sẽ còn bền vững. Nhưng các lập luận của họ cho việc kiểm soát độc quyền các nguồn tài nguyên biển và quyền điều chỉnh giao thông thì lại dựa trên các kể lể lịch sử lệch lạc và có thể bị thách thức.

Vì đây là hai vấn đề có nhiều khả năng gây xung đột, thách thức chúng, hơn là đáng [để cân nhắc]. Hoàn toàn có thể giữ trung lập về mặt chính trị đối với vấn đề lãnh thổ, trong khi vẫn khẳng định rằng, các yêu sách của Trung cộng thiếu những bằng chứng có thể kiểm chứng được. Tất cả các nước có lợi ích trong việc giải quyết hòa bình, các tranh chấp biển Đông cần phải xem xét một cách nghiêm túc hơn về mặt lịch sử và khẳng định rằng những yêu sách thiếu hậu thuẫn không phải là cơ sở để đối thoại và giải quyết xung đột.

Đối với khu vực châu Á và trên thế giới, sự tham gia không thể thiếu của các chuyên gia về Trung cộng và các nhà hoạch định chính sách về cơ sở của các kể lể của họ về biển Đông là bước thiết yếu đầu tiên. Các nhà đối thoại với các quan chức Trung cộng phải tự vũ trang mình các bằng chứng đó, để thách thức các kể lể lịch sử không có thật và sẵn sàng sử dụng chúng trong các cuộc thảo luận. Trong 20 năm qua, tất cả các bằng chứng này ngày càng dễ dàng tìm thấy. Đã đến lúc sử dụng chúng.


Bill Hayton là một nhà nghiên cứu tại Chatham House và là tác giả của cuốn sách The South China Sea: The Struggle for Power in Asia” (Biển Đông: Cuộc tranh cho giành quyền lực ở châu Á) Bài báo này dựa trên một bài giảng sẽ trình bày tại Đại học Tokyo ngày 6 tháng 4.