Chân
dung người lính VNCH
Nước mắt anh không
rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về,
anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất
nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất nước
thanh bình điêu tàn hơn thời chiến?
Không biết bắt đầu từ
thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế chính trị, đều thành lập một
lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ
chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên
một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu. Từ hơn hai
nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo
ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vụ giết thù diệt loạn, bảo quốc an
dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước,
hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thế hệ, nhưng trách nhiệm không hề
thay đổi.
Người thanh niên tuổi
trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác
ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi
trẻ đã trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người
lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời
xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa
vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương.
Bắt đầu từ thập niên
Sáu Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại
lai, với những xích cồng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người
lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô
nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam.
Ðất nước hai mươi năm
chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới
mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ.
Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai
mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ.
Tiếng mưa bom đạn réo
bên mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem
sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên
khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc.
Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn.
Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời
gian khổ và đánh bạn với gian nguy.
Anh với đầu đội súng
và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi
qua những địa danh xa lạ: Ashau, Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng
không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương
mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống
Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve
như sáo thổi.
Anh đã đến những
nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng
quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những
vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc, Ðồng
Xoài, Bình Giả… cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng
tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân,
người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá
ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường
quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. Ðể cho người
dân quốc gia được sống no ấm ở hậu phương.
Những người dân quốc
gia, những người dân quốc gia không hề muốn trở thành dân Cộng Sản,những
người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính để được
sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ
quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm
nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng
người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng. Vì thế,
họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa
hoa phè phỡn trên máu xương của người lính.
Và ở hậu
phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương
lai cuộc đời người lính đếm được trên từng ngón tay. Thế nên, người
lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lỏng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình
như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người
lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền hình.
Người
lính VNCH sắp ra chiến trường
Người lính bị bắt cóc
vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản
bội chính mình, để thoả mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi
phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang
tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy,
lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập
phá. Người lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng
trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi
đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình. à người yêu của anh lính là những cô mắt
ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp
trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái
hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống
giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.
Ðó là những người đàn
bà bình dị với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông kẽo kẹt, đóng vai
vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương
người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất
tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi
tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và
lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với
đối phương.
Hạnh phúc của họ mong
manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người
lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một
buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống
vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước.
Người vợ lính cũng là
những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định
hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng
đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô.
Trong nỗi chịu đựng
hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng
an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính, anh mang sự bất công
to lớn, sự bạc đãi phũ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa
muôn ngàn thù địch.
Ở chiến trường, anh đối
diện với kẻ thù hung ác, ở hậu phương anh bị ghét bỏ coi thường,
trên đầu anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng
minh anh đợi bán anh để cầu lợi an thân.
Những người dân của
anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và
điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán rẻ
linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ
trương đòi quyền sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh.
Người
lính VNCH giữ gìn hậu phương
Những kẻ để trái tim
rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống
của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút,
ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. Tất cả vây quanh anh để tặng cho
anh những đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười
phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối
cùng.
Ngày Hoà Bình, 28
tháng Giêng năm 1973 hiệp định Paris được ký kết Hoà Bình thật đến trên trang
giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho
hoà bình của họ và nhận giải Nobel Hòa Bình. Nhưng hoà bình đến ở Việt Nam tanh
hôi mùi máu, đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà
bình bi thảm đó.
Người lính vẫn tiếp tục
ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành luỹ để ngăn bước quân thù. Từ Ðông
sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào
mang số phận bi thương và oai hùng như người lính?
Những người lính chịu
uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày
không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không người yểm trợ để
hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải
hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.
Người lính, người ở địa
đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở
An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu
cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người
ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh
của riêng anh.
Người lãnh đạo anh
còn mè nheo ăn vạ. Và anh, anh phải đóng trọn vai trò làm vật hy sinh. Trước
nguy nan, lãnh đạo anh tìm đường chạy trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở tiền
phương. Anh đã chống giữ, chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày
24 giờ, không có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử
thủ cho con đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh tuyệt đối được bình yên.
Và đồng minh của anh,
người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh
dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những bước cuối cuộc đời.
Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người
đang yên nghỉ ?
Cho nên, cả thế giới
lặng câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới
đường đạn xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương của dân tộc đã vụt đứng
lên. Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và
người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người
lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt thoái.
Trên những con đường
từ Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy
loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm
dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay
xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước
cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.
Bởi lãnh đạo đầu
hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa
tin đời đã đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc?
Giã từ những hy sinh và gian khổ của hôm qua có thật không? Ngày buông vũ khí,
anh mơ được về để an phận kẻ thường dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống
giữa một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù?
Anh đã khóc nhiều
lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ
lính cười, dân khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã
khóc thương cho đời lính?
Thương cho người lính
với trái tim tan vỡ từ lâu. Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới
chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân
hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào
An Lộc? Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu.
Lịch sử đã sang
trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên trái đất? Thế nên
thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô
tình. Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở
Việt Nam. Và người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết,
chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập vào “thiên đường” Cộng Sản.
Hoà bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng
hoà bình không thật đến ở Việt Nam.
Người Cộng Sản chân
chính có truyền thống là những người không hề biết hoà bình, không sống được
trong hoà bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên
họ dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng.
Khởi đầu là việc cày
nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hoà. Người
Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng
lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt Miền
Nam.
Bởi từ khi những
người bộ đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì người dân Quốc Gia mới thật
sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối hận hôm nay hình như
luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy thì, khi ta chết trên con đường chạy loạn,
khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới
đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi viên
đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại
chính ta. Bởi sự thật về người Cộng Sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh
của người lính vượt quá nỗi bi thương.
Hai mươi năm chiến
tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để lại
hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên chiến
trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không
gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy,
không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.
Ðể cho bàn tay thiếu
nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc
mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước
mắt thôi không cần tuôn chảy.
Nhưng lịch sử đã sang
trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng Sản và cũng là những trang
đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Anh, người lính trong
thời chiến thành người tù của thời bình. Người lính chịu số phận bi thương của
chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu
vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.
Bởi Cộng Sản Việt Nam
đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống tận đáy trầm luân. Cũng
chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản đã chứng minh được Chúng và Anh
không là đồng loại. Chúng, là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế
giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối,
và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ đẹp
đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể đếm.
Người lính bước vào
trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có
án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù
vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm. Đày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí
tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn.
Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian.
Người lính đã trở
thành vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói bên những vòng xanh nở rộ do
chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm
tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn, Anh vượt qua sự
chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng
minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng.
Từ trong tăm tối hận
thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu, để từ trong cõi chết
anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất
hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm
lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
(Tô Thùy Yên)
Người lính VNCH đã
bỏ lại một phần thân xác trên chiến trường
Nước mắt anh không
rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về,
anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật
chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một
đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời chiến?
Và tuổi trẻ, những mầm
non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung giòng giống. Anh đi trên
đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương
này không có chỗ cho anh?
Hai mươi năm chiến
chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt
xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá
vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.
Anh không có quyền bắt
đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi
bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính
lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường
phố Mỹ.
Bốn mươi năm vết
thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b,
c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã
đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh.
Chúng ta đã quá may mắn,
quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng.
Nước mắt anh không
rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về,
anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật
chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một
đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời chiến?
Và tuổi trẻ, những mầm
non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung giòng giống. Anh đi trên
đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương
này không có chỗ cho anh?
Hai mươi năm chiến
chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt
xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá
vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.
Anh không có quyền bắt
đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi
bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính
lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường
phố Mỹ.
Bốn mươi năm vết
thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b,
c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã
đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh.
Chúng ta đã quá may mắn,
quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như
người lính Việt Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh và sống đời thầm lặng,
những anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh danh.
Nhưng cho tới nay, ta
đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia đi
chung con thuyền Miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt
Nam. Những người quốc gia đã sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh
chìm trong cơn Hồng Thủy của Việt Nam.
Chúng ta, những người
quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần đóng góp
nào cho chính nghĩa quốc gia.
Có phải giờ đây,
chúng ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở
kêu gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có
ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì ta nói tiếng
Anh trôi chảy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.
Ngày nay, Người Cộng
Sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. Vậy
còn ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm
màu của Người Lính Việt Nam Cộng
hòa của chúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những
bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa của
đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại tượng
Người Lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm nào.
Ðể một mai, khi quê
hương không còn giống Cộng Sản, ta đem anh về trở lại quê hương. Ðể anh được đứng
lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.
Bao nhiêu chuyên gia
nhóm họp nhan đề “xây dựng lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản”. Vậy
có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính? Bởi, một
ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà
đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một xã hội đáng gọi
là nhân bản.
Hãy vinh danh người
lính Việt Nam Cộng Hoà…. Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân
của họ... như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc,thì dân tộc
ta mới mong có được những truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương
lai….
Nguyễn Thị Thảo An