Nguyễn Hải Hoành
Tiếng ta còn thì nước ta còn!
Đồng hóa dân tộc
(national assimilation) gồm:
1- Đồng hóa tự
nhiên, tức quá trình dân tộc A trong giao tiếp với dân tộc
B, do chịu ảnh hưởng lâu dài của B mà A tự nhiên dần dần mất bản sắc của mình,
cuối cùng bị B đồng hóa; đây là một xu hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử
loài người.
2- Đồng hóa cưỡng
chế: Sự cưỡng bức một dân tộc nhỏ yếu hơn chấp nhận ngôn ngữ,
chữ viết, phong tục, tập quán của một dân tộc lớn mạnh hơn; đây là một tội ác.
Đồng hóa dân tộc
chủ yếu diễn ra dưới hình thức đồng hóa văn hóa, trong đó chủ thể đồng hóa thường
là một nền văn hóa mạnh và tiên tiến (như đông dân hơn, kinh tế phát triển hơn,
đã có chữ viết, có các hệ tư tưởng), đối tượng đồng hóa thường là nền văn hóa yếu
và lạc hậu hơn. Đồng hóa ngôn ngữ là công cụ đồng hóa văn hóa thông dụng nhất,
quan trọng nhất, hiệu quả nhất. Một dân tộc bị mất tiếng nói mẹ đẻ của mình và
phải nói tiếng của một dân tộc khác thì không còn giữ được bản sắc dân tộc nữa.
Trong lịch sử, các
nền văn hóa yếu thường bị nền văn hóa mạnh đồng hóa. Thời cổ, Trung Hoa là quốc
gia đông người nhất và có nền văn minh tiến triển nhất Châu Á. Nền văn hóa Hán
ngữ của họ có sức đồng hóa rất mạnh. Dân tộc Hồi ở phía Tây nước này, ngày xưa
dùng chữ Ả Rập, sau nhiều năm giao lưu với người Hán cũng toàn bộ dùng chữ Hán
và nói tiếng Hán. Ngay cả các dân tộc nhỏ nhưng mạnh về quân sự, sau khi thôn
tính và thống trị Trung Hoa được ít lâu cũng bị nền văn hóa Hán ngữ đồng hóa.
Thí dụ dân tộc Mãn
sau khi chiếm Trung Hoa và lập triều đại nhà Thanh đã lập tức tiến hành đồng
hóa dân tộc Hán: Cưỡng bức đàn ông Hán phải cạo nửa đầu và để đuôi sam, phải bỏ
chữ Hán mà chỉ dùng chữ Mãn làm chữ viết chính thức trên cả nước. Nhưng đến giữa
đời Thanh, tức sau khoảng 100 năm thì tiếng Mãn cùng chữ Mãn đều biến mất, từ
đó trở đi người Mãn chỉ dùng tiếng Hán và chữ Hán, nghĩa là họ lại bị đồng hóa
ngược bởi chính nền văn hóa của dân tộc bị họ cai trị lâu tới 267 năm!
Các nước đế quốc
thực dân sau khi chiếm thuộc địa đều cưỡng chế đồng hóa ngôn ngữ dân bản xứ,
quá trình này diễn ra khá nhanh, nhìn chung sau 5-6 thế hệ (mỗi thế hệ 25 năm),
tiếng nói của người bản xứ đã bị thay bằng ngôn ngữ của nước cai trị. Đầu thế kỷ
XV, Ba Tây bị Bồ Đào Nha chiếm, chẳng bao lâu tiếng Bồ trở thành ngôn ngữ chính
thức duy nhất của người Ba Tây. Nhiều thuộc địa Pháp ở Châu Phi như Bénin,
Togo, Sénegan… dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính duy nhất. Năm 1918 nước ta bắt
đầu dạy tiếng Pháp ở lớp cuối tiểu học, 10-20 năm sau toàn bộ học sinh trung học
cơ sở trở lên đến trường đã chỉ nói tiếng Pháp, giáo viên chỉ giảng dạy bằng tiếng
Pháp. Nếu cứ thế dăm chục năm nữa thì có lẽ Việt Nam đã trở thành nước nói tiếng
Pháp.
Thế nhưng sau hơn
1.000 năm bị bọn phong kiến người Hán thống trị và cưỡng bức đồng hóa, dân tộc
Việt Nam vẫn không bị Hán hóa, vẫn giữ nguyên được nòi giống, tiếng nói và
phong tục tập quán.Đây quả là một điều kỳ diệu có lẽ chưa dân tộc nào
khác làm được. Đáng tiếc là chưa thấy nhiều người quan tâm nghiên cứu vấn đề này,
một thành tựu vĩ đại đáng tự hào nhất của dân tộc ta (nói cho đúng là của tổ
tiên ta thôi, còn chúng ta bây giờ thua xa các cụ).
Vì sao tổ tiên ta
có thể làm được kỳ tích ấy? Có người nói đó là do dân ta giàu tinh thần yêu nước,
tinh thần dân tộc, xã hội có chế do làng xã bền chặt, v.v… Nói như vậy có lẽ
còn chung chung, nếu đi sâu phân tích tìm ra được nguyên nhân chinh thì sẽ giúp
ích hơn cho việc phát huy các truyền thống quý báu của dân tộc ta. Thực tế cho
thấy tổ tiên ta giành được thắng lợi chống đồng hóa không phải bằng đấu tranh
vũ trang mà bằng tài trí.
Xin nói thêm rằng
chính người Trung Hoa cũng rất quan tâm vấn đề này. Chúng tôi đã thử nêu lên mạng
Bách Độ (Baidu) của họ câu hỏi “Vì sao Trung Hoa thống trị Việt Nam hơn 1.000
năm mà Việt Nam không bị đồng hóa?”
Từ hàng triệu kết
quả, có thể thấy đa số dân mạng Trung Hoa đều có chung một thắc mắc lớn: Vì sao
bị Trung Hoa thống trị lâu thế mà người Việt Nam vẫn không nói tiếng Trung Hoa?
Nói cách khác, họ coi đồng hóa ngôn ngữ là tiêu chuẩn đồng hóa quan trọng nhất
và đều thừa nhận Trung Hoa đã không đồng hóa nổi Việt Nam. Họ tỏ ra tiếc nuối về
sự kiện Việt Nam sau hơn 10 thế kỷ từng là quận huyện của Trung Hoa, từng dùng
chữ Hán hàng nghìn năm mà rốt cuộc lại trở thành một quốc gia độc lập, dùng chữ
Latin hóa, ngày nay là nước chống lại mạnh nhất chính sách xâm lấn Biển Đông của
Bắc Kinh.
Do hiểu biết Việt
Nam rất ít, thậm chí hiểu sai, hầu hết dân mạng Trung Hoa không tìm được lời giải
thắc mắc trên, kể cả người tỏ ra am hiểu lịch sử nước ta. Họ nêu các lý do:
– Văn hóa Việt Nam
có trình độ Hán hóa cao (?), người Việt rất hiểu và không phục Trung Hoa;
– Việt Nam ở quá
xa Trung nguyên, khí hậu nóng, quan lại người Hán ngại sang Việt Nam làm việc,
đã sang thì chỉ lo làm giàu, không lo đồng hóa dân bản xứ;
– Các nhân vật
tinh hoa Trung Hoa như Lưu Hy, Hứa Tĩnh, Hứa Từ, Viên Huy (劉熙、許靖、許慈、袁徽) chạy
loạn sang Việt Nam đã giúp nước này có nền văn hóa không kém Trung Hoa;
– Người Hán di cư
đến Việt Nam đều bị người bản xứ đồng hóa v.v…
Nói chung họ đều
chưa thấy, hay cố ý lờ đi nguyên nhân chính là ở tài trí của người Việt.
Nhưng họ nói người
Việt Nam hiểu Trung Hoa là đúng. Do sớm hiểu rõ ý đồ thâm hiểm của phong kiến
người Hán muốn đồng hóa dân tộc ta nên tổ tiên ta đã kịp thời đề ra đối sách,
là đã tìm ra cách giữ gìn được tiếng nói của dân tộc mình trong quá trình bị bọn
thống trị người Hán cưỡng bức học chữ Hán. Mấy nghìn năm sau, một học giả
lớn của dân tộc ta tóm tắt bài học lịch sử này trong một câu nói rất chí
lý: “Tiếng ta còn thì nước ta còn!”
Sau khi chiếm nước
ta (203 trước Công Nguyên), Triệu Đà đã ép buộc dân ta học Hán ngữ, nhằm đồng
hóa họ bằng ngôn ngữ. Có lẽ đây là thời điểm muộn nhất chữ Hán vào nước
ta.[1] Sách “Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận” do Lê Tung viết năm 1514 có chép
việc họ Triệu mở trường dạy người Việt học chữ Hán.[2] Về sau, tất cả
các triều đại người Hán cai trị Việt Nam đều thi hành chính sách đồng hóa. Triều
nhà Minh còn tìm cách tiêu diệt nền văn hóa của ta, như tiêu hủy toàn bộ các
thư tịch do người Việt viết, bắt nhân tài, thợ giỏi người Việt sang Trung Hoa
phục dịch.
Như vậy, dân tộc
ta buộc phải chấp nhận học chữ Hán từ rất sớm (trước Triều Tiên, Nhật Bản nhiều
thế kỷ). Do hiểu biết người Hán nên tầng lớp tinh hoa người Việt đã nhanh chóng
nhận ra nếu cứ học như thế thì cuối cùng tiếng Việt sẽ bị thay bằng tiếng Hán,
dân ta sẽ trở thành một bộ phận của Trung Hoa.
Vậy cha ông ta đã
dùng cách nào để giữ được tiếng nói của dân tộc trong hơn 1.000 năm bị cưỡng bức
học và dùng chữ Hán cũng như phải tiếp thu nhiều yếu tố của nền văn minh Trung
Hoa? Vấn đề này rất cần được làm sáng tỏ để từ đó hiểu được truyền thống quý
báu của dân tộc ta. Dưới đây chúng tôi xin mạo muội góp vài ý kiến nông cạn, nếu
có sai sót mong quý vị chỉ bảo.
Đọc chữ Hán bằng tiếng
Việt: Một sáng tạo xuất sắc của tổ tiên ta.
Chữ viết
hình vuông là một phát minh lớn của nền văn minh Trung Hoa, được người Hán
chính thức sử dụng từ đời nhà Thương (thế kỷ 16 đến 11 trước Công Nguyên), ngày
nay phổ biến được gọi là chữ Hán.
Thực ra trong hơn
2.000 năm kể từ ngày ra đời, thứ chữ viết ấy chỉ được người Hán gọi là chữ 字 (tự) hoặc văn tự 文字. Đến đời Đường
(thế kỷ VII) cái tên 漢字 (Hán tự, tức chữ Hán) mới xuất hiện lần đầu trong
sách Bắc Sử 北史 do Lý Diên Thọ biên soạn.[3] Sau đó người Nhật và người
Triều Tiên cũng gọi thứ chữ này là Hán tự: Tiếng Nhật đọc Kanji, tiếng Triều
Tiên đọc Hantzu. Cho tới nay Bộ Giáo Dục Đài Loan vẫn chỉ gọi là Quốc tự 國字.
Vì thứ chữ ấy khi
vào Việt Nam còn chưa có tên nên tổ tiên ta bèn đặt cho nó cái tên là chữ Nho,
với ý nghĩa là chữ của người có học, bởi lẽ Nho 儒 là từ dùng để gọi
những người có học. Dân ta gọi người dạy chữ là thầy đồ Nho, bút và mực họ dùng
để viết chữ là bút Nho và mực Nho.[4]
Đây quả là một điều
độc đáo, bởi lẽ Hán ngữ xưa nay chưa hề có khái niệm chữ Nho; tất cả từ điển
Hán ngữ cổ hoặc hiện đại và các từ điển Hán-Việt đều không có mục từ Nho tự 儒字 với ý nghĩa là
tên gọi của chữ Hán.
Có thể suy ra: Việt
Nam thời xưa không có chữ viết (hoặc đã có chữ Việt cổ nhưng chưa hoàn thiện,
chưa diễn tả được các khái niệm trừu tượng), vì thế khi tiếp xúc với chữ Hán, tầng
lớp tinh hoa của tổ tiên ta đã nhận thấy đây là một phương tiện cực kỳ hữu ích
dùng để truyền thông tin được xa và lâu, không bị hạn chế về khoảng cách và thời
gian như cách truyền thông tin bằng tiếng nói, do đó họ đã sớm nghĩ tới việc mượn
thứ chữ này làm chữ viết của dân tộc ta.
Muốn vậy dân ta phải
biết chữ Hán, một thứ ngoại ngữ. Làm cho dân chúng học và dùng được một ngoại
ngữ là việc hoàn toàn bất khả thi ở thời ấy. Hơn nữa chữ Hán cổ khó đọc (vì
không biểu âm), khó viết (vì có nhiều nét và cấu tạo phức tạp), khó nhớ (vì có
quá nhiều chữ), thuộc loại chữ khó học nhất trên thế giới.
Nói chung, mỗi chữ
viết đều có một âm đọc; không ai có thể xem một văn bản chữ mà không vừa xem vừa
đọc âm của mỗi chữ (đọc thầm hoặc đọc thành tiếng). Mỗi chữ Hán đều có một âm
tiếng Hán; muốn học chữ Hán tất phải đọc được âm của nó. Viết chữ Hán khó, tuy
thế tập nhiều lần sẽ viết được, nhưng do khác biệt về hệ thống ngữ âm, người Việt
nói chung khó có thể đọc được các âm tiếng Hán.
Ngoài ra Trung Hoa
là một nước rộng lớn, đông dân; cho tới trước nửa cuối thế kỷ 20 cả nước vẫn
chưa thống nhất được âm đọc của chữ. Loại chữ này chỉ thể hiện ý nghĩa, không
thể hiện âm đọc, cho nên nhìn chữ mà không biết cách đọc. Người dân các vùng xa
nhau thường đọc chữ Hán theo âm khác nhau, thậm chí khác xa nhau, vì thế thường
không hiểu nhau nói gì. Các thứ tiếng địa phương ấy ta gọi là phương ngữ, người
Hán gọi là phương ngôn (方言); Hán ngữ hiện có 7 phương ngữ lớn, nhiều phương ngữ
nhỏ (次方言).
Không thống nhất
được âm đọc chữ Hán là một tai họa đối với người Hán. Với người nước ngoài học
chữ Hán cũng vậy: Khi mỗi ông thầy Tàu đọc chữ Hán theo một âm khác nhau thì học
trò khó có thể học được thứ chữ này.
Để có thể học được
chữ Hán mà không cần đọc âm tiếng Hán, tầng lớp tinh hoa của tổ tiên ta đã sáng
tạo ra một giải pháp xuất phát từ ý tưởng: Nếu người Hán khác vùng có thể tự đọc
chữ Hán theo âm riêng của vùng, thì ta cũng có thể đọc chữ Hán theo âm riêng của
người Việt.
Muốn vậy, mỗi chữ
Hán được tổ tiên ta quy ước đọc bằng một (hoặc vài, tùy chữ Hán gốc) âm tiếng
Việt xác định có gốc là âm chữ Hán — ngày nay gọi là âm Hán-Việt, nghĩa là mỗi
chữ Hán đều được đặt cho một (hoặc vài) cái tên tiếng Việt xác định, gọi là từ
Hán-Việt.
Thí dụ chữ 水 được đặt tên là
chữ Thủy, âm đọc thủy khác với âm đọc shuẩy của người Hán. Chữ 色, tiếng Hán đọc
sưa, ta đọc sắc. Thủy và Sắc là từ Hán-Việt, cũng là âm Hán-Việt của 水và色.
Mỗi từ ngữ Hán-Việt
được chọn theo nguyên tắc cố gắng bám sát âm Hán ngữ mà tổ tiên ta từng biết.[5]
Như chữ 終, âm Hán và âm Hán-Việt đều đọc chung, tức hệt như
nhau; chữ 孩, Hán ngữ đọc hái, ta đọc Hài, gần như nhau. Nhưng hầu
hết chữ đều có âm Hán-Việt khác âm Hán. Như 集 âm Hán là chí, ta đọc Tập ; 儒 giú, ta đọc Nho.
Có chữ âm Hán như nhau mà âm Hán-Việt có thể như nhau hoặc khác nhau, như 同 và 童, âm Hán đều là
thúng, từ ngữ Hán-Việt đều là Đồng; nhưng 系 và 細, âm Hán đều là xi, lại có hai từ Hán-Việt
khác nhau là Hệ và Tế. Chữ Hán có hai hoặc nhiều âm thì có thể có một, hai hoặc
nhiều âm/từ Hán-Việt, như 都 có hai âm Hán là tâu và tu, lại chỉ có một âm/từ
Hán-Việt là Đô ; 少 có hai âm Hán shảo và shao, cũng có hai âm/từ Hán-Việt
là Thiểu (trong thiểu số) và Thiếu (trong thiếu niên).
Thứ chữ Hán đọc bằng
âm Hán-Việt này được dân ta gọi là chữ Nho. Vì đọc chữ bằng tiếng mẹ đẻ nên chữ
Nho trở nên dễ học đối với người Việt: Chỉ cần học mặt chữ, nghĩa chữ và cách
viết văn chữ Hán mà không cần học phát âm cũng như học nghe/nói tiếng Hán. Vì
thế thời xưa ở nông thôn nước ta không hiếm người 6-7 tuổi đã biết chữ Nho.[6]
Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) 12 tuổi đỗ cử nhân, 16 tuổi đỗ hoàng giáp (tiến
sĩ). Người không biết chữ cũng có thể học truyền miệng các tác phẩm ngắn có vần
điệu, như Tam Thiên Tự.[7]
Người biết chữ Nho
có thể xem hiểu các thư tịch chữ Hán, viết văn chữ Hán; tuy không nói/nghe được
tiếng Hán nhưng vẫn có thể dùng bút đàm để giao tiếp bình thường với người Hán.
Chỉ bằng bút đàm chữ Nho, Phan Bội Châu giao tiếp được với các nhà cải cách Trung
Hoa và Nhật Bản, đưa được mấy trăm thanh niên Việt Nam sang Nhật học quân sự
chính trị, chuẩn bị về nước đánh đuổi thực dân Pháp.
Cần nhấn mạnh: Vì
âm/từ Hán-Việt không thể ghi âm hầu hết từ ngữ tiếng Việt cho nên cách đọc chữ
Hán theo âm Việt hoàn toàn không thể biến tiếng Việt thành một phương ngữ của
Hán ngữ,[8] và dân ta vẫn hoàn toàn nói và nghe bằng tiếng mẹ đẻ.
Chữ Nho chỉ dùng để
viết mà thôi, và chỉ được giới tinh hoa (trí thức và quan lại người Việt) dùng
trong giao dịch hành chính, ngoại giao, lễ tiết, chép sử, giáo dục, thi cử,
sáng tác văn thơ. Còn ở Trung Hoa, những người nói một trong các phương ngữ tiếng
Hán đều có thể dùng chữ Hán để ghi âm được toàn bộ tiếng nói của phương ngữ ấy,
nghĩa là họ có thể dùng chữ Hán để ghi âm tiếng mẹ đẻ.
Dĩ nhiên cách đọc
tiếng Việt chỉ có thể làm với chữ Hán, là loại chữ biểu ý (ghi ý), chứ không thể
làm với chữ biểu âm (ghi âm). Ngày nay âm/từ Hán-Việt của mỗi chữ Hán có thể dễ
dàng viết ra bằng chữ Quốc ngữ (một loại chữ ghi âm), nhưng ngày xưa, khi chưa
có bất kỳ loại ký hiệu nào ghi âm tiếng nói, tổ tiên ta chỉ có thể truyền khẩu.
Thế mà lạ thay, việc dạy chữ Nho đã được mở rộng, ở thời Nguyễn là đến tận
làng, có thể suy ra tỷ lệ người biết chữ Hán của dân ta cao hơn Trung Hoa!
Chỉ bằng cách truyền
miệng mà người Việt thời xưa đã tạo ra được một bộ từ Hán-Việt tương ứng với bộ
chữ Hán khổng lồ — bộ chữ này trong Tự điển Khang Hy (1716) có hơn 47 nghìn chữ;
Tiêu chuẩn nhà nước Trung Hoa GB18030 (2005) có 70.217 chữ; Trung Hoa Tự hải có
85.568 chữ Hán.
Quá trình tiến
hành Việt Nam hóa phần ngữ âm của chữ Hán kéo dài trong hàng nghìn năm, là một
thành tựu văn hóa vĩ đại. Có thể phỏng đoán đó là một quá trình mở, do nhiều thế
hệ người Việt thực hiện, thể hiện sức sáng tạo bất tận của tổ tiên ta.
Nhật và Triều Tiên
cũng mượn dùng chữ Hán, nhưng họ tự đến Trung Hoa nghiên cứu đem chữ Hán về
dùng chứ không bị ép dùng từ sớm như ta. Họ cũng đọc chữ Hán theo âm bản ngữ của
dân tộc mình — giải pháp do người Việt nghĩ ra và thực hiện trước họ nhiều thế
kỷ.
Nhà ngôn ngữ học nổi
tiếng Nguyễn Tài Cẩn nói: “Cách đọc Hán
Việt là một tài sản của riêng dân tộc ta. Có dùng nó khi đọc Đạo đức kinh, Kinh
Thi, Sở từ… thì mới phù hợp với thói quen dân tộc, tiện lợi cho dân tộc. Theo ý
chúng tôi, dùng cách đọc Hán Việt ở những trường hợp này là một điều hết sức
phù hợp với khoa học. Đọc theo lối Hán Việt thì dễ hiểu hơn, bởi lẽ ngay trong
tiếng Việt đã có khá nhiều tiếng Hán Việt quen thuộc, chỉ đọc lên, nghe được,
là hiểu được; đọc theo lối Hán Việt thì cũng thuận tai hơn… ”.[9]
Đúng thế. Thí dụ từ
社會, người
Anh biết Hán ngữ đọc shưa huây, người Anh không biết Hán ngữ khi nghe âm đọc ấy
sẽ chẳng hiểu gì; còn người Việt biết Hán ngữ đọc “xã hội”, người Việt không biết
Hán ngữ nghe đọc sẽ hiểu ngay nghĩa của từ; âm “xã hội” thuận tai, dễ đọc dễ nhớ
hơn âm shưa huây. Rõ ràng cách đọc Hán-Việt thật tiện lợi cho người Việt. Trong
bài sau, chúng tôi sẽ nói thêm về vấn đề này.
Ngày nay mỗi chữ
Hán trong tất cả các từ điển Hán-Việt đều phải ghi kèm từ Hán-Việt tương ứng.
Hán-Việt Tự Điển của Thiều Chửu có kèm bảng tra chữ theo âm Hán-Việt, dùng tra
chữ Hán rất tiện và nhanh hơn tra theo bộ thủ. Người có sáng kiến làm Bảng này
là bà Nguyễn Thị Quy (1915-1992), em ruột Thiều Chửu, khi bà lần đầu xuất bản tự
điển nói trên tại Sài Gòn năm 1966.[10]
Như vậy, bằng
cách đọc chữ Hán theo âm tiếng Việt, tổ tiên ta đã thành công trong việc mượn
chữ Hán để dùng làm chữ viết chính thức của dân tộc mình và gọi nó là chữ Nho. Sự vay
mượn này chẳng những không làm cho tiếng Việt bị biến mất mà còn làm cho nó
phong phú hơn rất nhiều, trở thành một ngôn ngữ cực kỳ linh hoạt, có thể tiếp
nhận và Việt hóa hầu như toàn bộ từ ngữ mới xuất hiện trong tiến trình phát triển
của loài người toàn cầu.
Chữ Nho khác chữ
Hán ở phần ngữ âm: nó là chữ Hán được đọc bằng âm tiếng Việt chứ không đọc bằng
âm tiếng Hán như chữ người Hán dùng. Nói cách khác, chữ Nho là chữ Hán đã
được Việt Nam hóa phần ngữ âm; còn về tự dạng và nghĩa chữ thì cơ bản như chữ
Hán của người Hán. Vì thế có người gọi chữ Nho là chữ Hán-Việt.
Rõ ràng nó là chữ
của người Việt Nam, đã Việt Nam hóa phần ngữ âm, không thể coi là chữ của người
Hán. Chữ Nho là chữ viết chính thức của dân tộc ta trong hơn 2.000 năm, kể từ
thời điểm muộn nhất là bắt đầu thời Bắc thuộc cho tới khi được thay thế bằng chữ
Quốc ngữ cực kỳ ưu việt, được chính các nhà Nho tiên tiến tán
thưởng và đi tiên phong ủng hộ sự phổ cập Quốc ngữ.
Cách đọc chữ Hán bằng
âm/từ Hán-Việt đã đáp ứng nhu cầu giao tiếp bằng bút đàm giữa quan lại cấp thấp
người Việt với quan lại cấp cao người Hán, khiến cho bọn thống trị người Hán vẫn
thực thi được quyền lực cai trị dân bản xứ. Hơn nữa, cách đó làm cho việc phổ cập
chữ Hán trong người Việt trở nên dễ dàng, tức đáp ứng yêu cầu dạy chữ Hán của
các vương triều người Hán. Vì vậy chúng không còn lý do cưỡng chế dân ta phải học
nghe/nói tiếng Trung Hoa.
Cách đọc chữ Hán
như trên đã có tác dụng không ngờ là làm cho người Hán dù có cai trị Việt Nam
bao lâu thì cũng không thể tiêu diệt nổi tiếng Việt và Hán hóa được dân tộc ta.
Có thể là khi bắt đầu sáng tạo cách đọc ấy, tổ tiên ta chưa nghĩ tới điều
đó, nhưng rốt cuộc sáng tạo xuất sắc này đã giúp dân tộc ta tránh được nguy cơ
bị người Hán đồng hóa. Đây là một thành công vĩ đại!
Đáng tiếc là hiện
không thấy có thư tịch nào ghi chép ai nghĩ ra và thời điểm nào xuất hiện cách
đọc chữ Hán bằng âm/từ Hán-Việt. Có thể cho rằng sáng kiến đó ra đời khi chữ
Hán bắt đầu vào nước ta, tức muộn nhất là khoảng thế kỷ 2 – 1 trước Công
Nguyên. Có ý kiến cho rằng cách đọc Hán-Việt bắt nguồn từ hệ thống ngữ âm
tiếng Hán đời Đường, là Đường âm dạy ở Giao Châu vào khoảng hai thế kỷ 8, 9.
Nếu hiểu ý kiến
này theo nghĩa đến đời Đường mới xuất hiện cách đọc Hán-Việt thì e rằng khó có
thể giải đáp câu hỏi: Vậy thì trong thời gian khoảng ngót 1000 năm trước đó người
Việt đọc chữ Hán bằng cách nào? Đến đời Đường, người Hán đã thống trị Việt Nam
được hơn 9 thế kỷ, quá thừa thời gian để họ hoàn toàn đồng hóa người Việt bằng
văn hóa, ngôn ngữ, khi ấy tiếng Việt đã bị biến mất, sao còn có thể xuất hiện
cách đọc Hán-Việt?
Phải chăng nên hiểu
ý kiến trên theo nghĩa: đến thời Đường, cách đọc Hán-Việt được hoàn thiện nhờ học
tập Đường âm dạy ở Giao Châu vào khoảng thế kỷ 8 – 9.
***
Có thể kết luận: Dân tộc Việt Nam
tồn tại được và không bị đồng hóa sau hơn 1.000 năm chịu sự thống trị của một
quốc gia liền kề có nền văn hóa lớn mạnh là nhờ đã phát huy bản lĩnh trí tuệ của
mình, thể hiện ở chỗ sáng tạo được biện pháp đọc chữ Hán bằng tiếng Việt, qua
đó đã vô hiệu hóa chủ trương đồng hóa ngôn ngữ của các triều đại phong kiến
Trung Hoa.
Có những người Hán
đã nhận ra bản lĩnh trí tuệ ấy của người Việt.
Năm 987, nhà Tống
cử Lý Giác李覺 đi sứ sang Hoa Lư, Việt Nam, được hai vị Quốc sư
Khuông Việt và Pháp Thuận đón tiếp, đàm phán các vấn đề quốc gia đại sự và họa
thơ. Khi về nước, Lý Giác tặng vua Lê Đại Hành một bài thơ, trong có câu:
“Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu 天外有天應遠照”, nghĩa là: “Ngoài trời này còn có
trời khác, nên nhìn thấy”. Nói cách khác, thế giới này đâu phải chỉ có một mặt
trời Trung Hoa mà còn có mặt trời Việt Nam!
Câu thơ cho thấy
Lý Giác đã bước đầu nhận ra bản lĩnh trí tuệ của người Việt. Đúng thế, tổ tiên
ta thật vô cùng tài giỏi, nếu không thì còn đâu giang sơn tươi đẹp này!
Nguyễn Hải Hoành là
dịch giả và nhà nghiên cứu tự do hiện sống tại Hà Nội.
____
[1] Nói là “muộn
nhất” vì còn có các quan điểm như: chữ Hán vào Việt Nam qua con đường giao
thương hoặc truyền bá tôn giáo từ lâu trước khi nước ta bị Triệu Đà chiếm; Việt
Nam đã có chữ viết từ đời Hùng Vương (Hoàng Hải Vân: Thiền Sư Lê Mạnh Thát và
những phát hiện lịch sử chấn động).
[2]宋代中越文学交流述论 có câu 黎嵩 “越鑑通考總論” viết
: 趙佗 “建立學校,導之經義。由此已降,四百余年,頗有似類”.
[3] Bài 汉字名称的来由 (http://blog.sina.com.cn) và một số bài khác có viết: Từ Hán tự 漢字 xuất hiện sớm trong Bắc sử, quyển 9 [biên
soạn xong năm 659]. 汉字一词早出自《北史》卷九本纪第九,
“章宗一”:“十八年,封金源郡王.始习本朝语言小字, 及汉字经书,以进士完颜匡、司经徐孝美等侍读”. Từ Hán tự xuất hiện nhiều trong sách
Kim sử 金史 (năm 1345) đời Nguyên. Ở đời nhà Thanh
(1644-1911), thời kỳ đầu do chữ viết chính thức của chính quyền không phải là
chữ Hán mà là chữ Mãn (满文) nên phải
dùng tên gọi chữ Hán 漢字 để chỉ loại
văn tự truyền thống của người Hán, nhằm phân biệt với chữ Mãn.