Ảnh minh họa: Lễ hội Cổ Loa tại huyện Đông Anh, Hà
Nội.
Ở Việt Nam,
đặc biệt ở miền Bắc, mỗi năm có cả hàng ngàn lễ hội, nhưng những lễ hội quan
trọng và thu hút đông đảo người tham dự nhất là những lễ hội được tổ chức sau
Tết nguyên đán.
Đọc những
bài tường thuật trên báo chí trong nước cũng như trên các diễn đàn mạng, người
ta nhận thấy hai điều; Thứ nhất, lễ hội nào cũng đông người dự, thường là cả
mấy ngàn người, thậm chí, cả mấy chục ngàn người; người nào cũng đầy thành tín
với ước mong được nhiều may mắn trong năm mới. Thứ hai, trái ngược hẳn với sự
thành tín ấy, không khí lễ hội lại rất nhếch nhác và hỗn loạn. Người ta chen
lấn nhau; chửi bới nhau, thậm chí ẩu đả nhau. Người ta trèo lên cả bàn thờ để
ngắt hoa, lấy đồ cúng hoặc sờ vào các bức tượng thần và Phật để lấy…lộc. Trong
hội phết ở Hiền Quan, Phú Thọ, sau khi hành lễ, vị tiên chỉ tung sáu quả phết
(làm bằng gỗ với đường kính khoảng 35cm) lên cao. Với niềm tin là ai cướp được
quả phết ấy thì không những bản thân mình, gia đình mình mà còn cả làng mình sẽ
được phước lộc cả năm, hàng ngàn thanh niên nhào đến giành giật. Người này
giành được lại bị người khác giật mất. Cứ thế. Cả hàng ngàn người, trong đó có
nhiều người ở trần trùng trục xông vào nhau, giẫm đạp lên nhau, đánh đấm nhau,
quyết tâm giành cho được quả phết. Đó là chưa kể chung quanh lễ hội: Hầu như
tất cả các hàng quán đều nâng giá lên cao vòi vọi, một hiện tượng mà người
trong nước gọi là “chặt chém”.
Mô tả khung
cảnh của những buổi lễ như thế, trên báo chí, người ta dùng những từ ngữ nặng
nề như “náo loạn”, “hỗn loạn”, “ẩu đả”, “hỗn chiến”, “bát nháo”, “thô tục”,
“bạo liệt”, “phản cảm”, “không thể tưởng tượng được”, v.v… khiến mọi người thấy
“rùng mình”, “ngao ngán” và “xấu hổ”. Một số người còn lưu ý là những cảnh
tượng nhếch nhác như vậy chỉ có ở miền Bắc. Trong Nam, như ngày hội Tết ở Bình
Dương, cũng quy tụ cả hàng chục ngàn người, không hề có những sự chen lấn, giẫm
đạp lên nhau cũng như những sự giành giật xô bồ và tồi tệ như vậy. Nhiều người
đi đến kết luận: văn hoá Việt Nam đang xuống cấp trầm trọng.
Thật
ra, văn hoá Việt Nam đã xuống cấp từ lâu. Xuống cấp trong học đường: học
sinh hành hung nhau và không tôn trọng thầy cô giáo; các thầy cô giáo thì chỉ
xem việc dạy học như một sinh kế, ở đó, người ta tận dụng nhiều thủ đoạn, phổ
biến nhất là trong việc dạy thêm, để có thật nhiều tiền. Xuống cấp trong gia đình: cha mẹ không làm gương hoặc
chỉ làm gương xấu cho con cái; con cái cũng không còn hiếu đễ đối với cha mẹ
cũng như giữa anh em với nhau. Xuống cấp trong xã hội:
người ta chỉ biết chạy theo quyền lợi, bất kể đạo lý, mất cả nhân nghĩa
và lòng tự trọng; cái gọi là tình hàng xóm, tình đồng bào và tình người trở
thành một cái gì hết sức hiếm hoi. Xuống cấp trong
phạm vi quốc gia: giới lãnh đạo chỉ chạy theo quyền lợi riêng, việc làm
không đi đôi với lời nói, nạn tham nhũng tràn lan, sự dối trá lên ngôi. Tuy
nhiên, tất cả những sự xuống cấp như vậy đều khá chung chung. Không có biểu
hiện nào cụ thể về sự xuống cấp ấy cho bằng hình ảnh các lễ hội sau Tết.
Lễ hội nào
cũng bao gồm hai khía cạnh: lễ và hội. Lễ là tế lễ, cúng kiếng, nghi thức; hội
là sinh hoạt. Lễ là phần thiêng liêng, hội là phần giải trí. Lễ nối con người
với thế giới tâm linh, hội gắn kết con người lại với nhau. Phần lễ làm cho phần
hội gắn liền với quá khứ và truyền thống, từ đó, có ý nghĩa văn hoá. Chính vì
vậy, lễ hội trở thành một phần của văn hoá, văn hoá dân gian.
Việc cả
ngàn, thậm chí, hàng chục ngàn người tham gia vào các lễ hội chứng tỏ người ta
không những mê thích các trò tiêu khiển mà còn rất quan tâm đến thế giới tâm
linh. Người ta tin vào thần thánh, tin vào số phận, tin vào những ân lộc may
mắn đến được từ sự nguyện cầu. Thế nhưng, tại sao, ở chỗ linh thiêng như vậy,
người ta lại hành xử một cách trần tục và thô tục như giành giật nhau, giẫm đạp
lên nhau, xô xát nhau như vậy? Chẳng lẽ là người ta tin thần thánh sẽ phù hộ
cho họ khi người ta trèo lên bàn thờ để giật hoa quả và đồ cúng cũng như ẩu đả
nhau như vậy?
Từ lâu,
người ta đã nói tín ngưỡng làm cho con người hướng thượng hơn, bao dung hơn,
nghĩ về người khác nhiều hơn, thế nhưng, qua những gì người ta chứng kiến được
trong các lễ hội, rõ ràng là niềm tin vào thần linh không làm cho người ta trở
thành tốt đẹp hơn. Tại sao?
Lý do chính
dĩ nhiên không xuất phát từ tín ngưỡng. Tín ngưỡng nào ít nhiều cũng đều có mặt
tốt. Lý do chính, theo tôi, là người ta không tín ngưỡng thật. Người ta chỉ mê
tín. Người ta không nghĩ đến khía cạnh đạo đức của lễ hội mà chỉ xem đó như chỗ
để người ta cầu an và cầu may. Người ta chỉ xem thần thánh như những con buôn,
với họ, người ta có thể mua chuộc và đút lót.
Thái độ ấy
chủ yếu xuất phát từ tâm lý bất an. Người nghèo, cả ngày quần quật kiếm sống,
được ngày nào hay ngày ấy, hoàn toàn bất an về tương lai: Họ cần một điểm tựa
về tinh thần. Cả người giàu có và có quyền chức cũng bất an: Tất cả tiền bạc và
địa vị của họ không đến từ tài năng và công sức chân chính mà chỉ đến nhờ chạy
chọt và tham nhũng, bởi vậy, người ta rất sợ bị mất. Đến với thần linh, người
ta hy vọng sẽ tiếp tục được may mắn.
Trong một xã
hội mà cả người giàu lẫn người nghèo, cả người thống trị lẫn người bị trị, đều
bất an, không có giá trị nào thực sự vững chắc cả. Nhiều
người cho vấn đề trầm trọng nhất của xã hội Việt Nam hiện nay là sự loạn chuẩn,
đúng hơn, sự biến mất của các chuẩn mực đạo đức. Ranh giới giữa cái tốt và cái
xấu, cái cao thượng và cái thấp hèn, cái nên làm và cái không nên làm đều bị
xoá nhoà. Khi mất ranh giới ấy, người ta cũng mất cả ý thức hướng thiện và,
quan trọng hơn, mất cả sự hổ thẹn.
Khi
sự hổ thẹn không còn, đạo đức cũng sẽ không còn. Đó mới chính là điều đáng lo
lắng nhất cho xã hội Việt Nam hiện nay. Chế độ độc tài một lúc nào đó sẽ sụp đổ. Nhưng những
con người không biết hổ thẹn và không có ý niệm đạo đức sẽ còn mãi.
Còn, như một
tai hoạ cho tương lai.
Nguyễn Hưng
Quốc