„Tính từ thế kỷ XX cho đến nay, lịch sử VN có quá
nhiều biến cố bị che dấu, bị bóp méo, thậm chí bị xóa trắng, mà các nhà văn nhà
thơ, nhà nghiên cứu cần tiếp tục viết nhiều, nhiều hơn nữa để cho các thế hệ
sau và thế giới hiểu được sự thật, hiểu được những năm tháng sai lầm, ngang
trái, bi kịch trên đất nước này.“
Nhân một nhà văn lớn của miền
Nam trước 1975 vừa qua đời…
Nhà văn Dương Nghiễm Mậu “Sống tự do hay là chết”. Ảnh: internet
Sau 30.4.1975, nhiều người miền Bắc vào miền Nam và nhận ra mình bị lừa, nhận ra sự dối trá của đảng và nhà nước cộng sản khi tận mắt chứng kiến sự phồn thịnh, sung túc, tự do, thoải mái, văn minh tiến bộ hơn hẳn của Sài Gòn và miền Nam. Nhưng đó chỉ mới là khía cạnh kinh tế, và sự tự do dân chủ. Còn những cái mất mát đáng tiếc nữa, nói lên sự ngu xuẩn, tội ác của nhà cầm quyền và sự éo le của lịch sử khi một chế độ lạc hậu, man rợ hơn lại thắng một chế độ văn minh hơn. Đó là sự mất mát của cả một nền văn học nghệ thuật tự do, đầy sáng tạo, đầy tính nhân văn, một nền giáo dục “nhân bản, dân tộc và khai phóng” hay một xã hội đã xây dựng được tương đối một nền nếp đạo đức, quy củ, tôn trọng luật pháp…
Riêng trong lĩnh vực văn
học nghệ thuật, ngay
sau tháng 4.1975, nhà cầm quyền đã ra lệnh tịch thu, đốt phá cho bằng hết những
sản phẩm văn hóa “đồi trụy” của miền Nam. Cùng với một số lượng lớn quân nhân công
chức, trí thức của chế độ VNCH, nhiều văn nghệ sĩ miền Nam cũng phải lên đường
đi học tập cải tạo, những người còn lại hầu hết buông bút, bị gạt ra ngoài lề
xã hội, vất vả mưu sinh bằng những công việc khác, chả liện quan gì đến nghiệp
văn, như ra chợ trời bán thuốc lá, bán đồ cũ, thậm chí làm ruộng, chăn dê (như
nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ chẳng hạn). Rồi nhiều người trong số họ lần lượt
phải từ bỏ đất nước ra đi tìm tự do vì không chịu nổi đời sống tinh thần, chính
trị, sáng tác bức bối, kỳ thị ở VN.
Hơn 41 năm sau, có lẽ chỉ
có âm nhạc miền Nam là vẫn hiện diện thường xuyên trong đời sống tinh thần của
người Việt trong và ngoài nước. Dù một số lượng tác phẩm và nghệ sĩ vẫn bị cấm biểu
diễn, cấm phổ biến ở VN nhưng với những ai yêu âm nhạc miền Nam thì người ta
vẫn có thể tìm nghe đủ hết, qua các kênh khác nhau. Nhiều ca sĩ, nhạc sĩ trong
nước ra bên ngoài biểu diễn và nhiều ca sĩ, nhạc sĩ hải ngoại trở về nước hát,
làm việc, ngay cả những người từng lớn tiếng chống Cộng hay tuyên bố không bao
giờ trở về khi chế độ cộng sản còn tồn tại…Nhưng văn chương thì khó hơn nhiều.
(Và điện ảnh chẳng hạn, tất nhiên càng không có cơ hội). Hơn 41 năm, một nền văn
chương miền Nam dưới chế độ VNCH cực kỳ phong phú, đa dạng, tự do, sáng tạo,
vẫn bị xem như chưa hề tồn tại.
Sự ngu xuẩn của nhà cầm
quyền là ở chỗ trong khi Trung Cộng đã và vẫn đang, sẽ là kẻ thù lâu dài của
dân tộc VN, là mối đe dọa lớn nhất đối với chủ quyền, độc lập toàn vẹn lãnh
thổ, thì nhà cầm quyền lại tiếp sức, tuyên truyền không công cho văn hóa của
họ. Sách, tiểu thuyết Trung Hoa được in đầy rẫy trong các nhà sách lớn nhỏ từ
Nam ra Bắc, kể cả những loại ngôn tình nhảm nhí cho tới những quyển sách ca
ngợi Mao Trạch Đông, ca ngợi Đặng Tiểu Bình- kẻ đã ra lệnh phát động cuộc chiến
1979 để “dạy cho VN một bài học”; phim truyền hình Trung Hoa chiếu tràn lan dày
đặc trên các kênh từ trung ương đến địa phương.
Tội ác của nhà cầm quyền
là ở chỗ đã bức hại hàng trăm, hàng ngàn văn nghệ sĩ miền Nam sau 1975 khiến họ phải đi học tập
cải tạo, phải lăn lộn với những công việc lao động vất vả để mưu sinh, khiến
tài năng họ mỏi mòn, thui chột, cho dù khi phải sống thầm lặng trên quê hương
hay khi phải lang bạt tha hương trên xứ người.
Đôi khi tôi cứ nghĩ, nếu
không có biến cố tháng 4.1975 thì văn học dịch thuật, khảo cứu ở miền Nam còn
tiến tới đâu? Thì những nhà thơ như Nguyên Sa, Nguyễn Tất Nhiên, Phạm
Thiên Thư, Bùi Giáng, Trần Dạ Từ, Cung Trầm Tưởng, Trần Tuấn Kiệt,Thanh Tâm
Tuyền, Tô Thùy Yên, Sao Trên Rừng (Nguyễn Đức Sơn), Du Tử Lê….; những nhà văn như Nhã Ca, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng, Trần Thị
NgH, Nguyễn Thị Hoàng, Mai Thảo, Võ Phiến, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn,
Doãn Quốc Sỹ, Phan Nhật Nam, Cung Tích Biền, Hoàng Ngọc Biên…; hay mảng
nghiên cứu, phê bình, dịch thuật, triết
học, phật giáo và công giáo với những cây bút như Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Duy Cần,
Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Nhất Hạnh, Võ Hồng, Hoài Khanh, Phạm Công Thiện, các
giáo sư và linh mục Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Cao Văn Luận, Nguyễn Văn
Thích, Hoàng Sỹ Quý, Nguyễn Khắc Xuyên, Kim Định…sẽ còn tiếp tục cho ra
đời bao nhiêu tác phẩm, công trình khác nữa?
Và chắc chắn với bầu
không khí tự do, yêu chuộng văn chương học thuật của miền Nam sẽ còn có rất
nhiều gương mặt mới, thế hệ mới xuất hiện, nhiều nhà
sách, tạp chí, nhiều nhóm văn nghệ, tư tưởng ra đời như đã có nhóm Bách Khoa, Nhân Loại, Nhận Thức
(Huế), Tinh-Việt văn-đoàn, Sống Đạo, Phương Đông, Đối Diện, Sáng Tạo, Hiện Đại,
Thế Kỷ Hai Mươi, Gió Mới, Nghệ Thuật…Các tạp chí chuyên về tư tưởng, triết học
như Tư Tưởng, Vạn Hạnh, Giữ Thơm Quê Mẹ, các nhà xuất bản Lá Bối, An Tiêm, Ca
Dao…, và vô số những tờ báo, tạp chí văn học
nghệ thuật như Sáng Tạo, Quan Điểm, Văn Hóa Ngày Nay, Nhân Loại, Văn Đàn, Bách Khoa,
Văn Học, Văn, Nghệ Thuật, Tiếng Nói…không thể kể hết.
Gia tài văn học nghệ
thuật của VN vốn đã mỏng, đã ít ỏi, lại còn bị triệt hạ, thủ tiêu tàn nhẫn bởi
“bên thắng cuộc”.
Như nhà văn Dương Nghiễm
Mậu, một nhà văn lớn của miền Nam vừa mới qua đời tối ngày 2.8.2016 tại Sài
Gòn, nếu không có biến cố 30.4.1975 chắc chắn số lượng tác phẩm và sức sáng tạo
của ông đã không dừng ở đó. Sau khi đi học tập cải tạo về, ông sống lặng lẽ
bằng công việc vẽ tranh sơn mài cho đến khi nằm xuống vĩnh viễn. Vậy mà năm
2007, khi công ty Phương Nam và NXB Văn Nghệ tái bản bốn tập truyện của ông
gồm: Nhan sắc, Đôi mắt trên trời, Tiếng sáo người em út, Cũng đành,
ông vẫn bị “đấu tố” tưng bừng, bởi những cây bút đầy ghen tị, với nhân cách và
tài năng “nhỏ bé” hơn ông.
Tính từ thế kỷ XX cho đến
nay, lịch sử VN có quá nhiều biến cố bị che dấu, bị bóp méo, thậm chí bị xóa
trắng, mà các nhà văn nhà thơ, nhà nghiên cứu cần tiếp tục viết nhiều, nhiều
hơn nữa để cho các thế hệ sau và thế giới hiểu được sự thật, hiểu được những
năm tháng sai lầm, ngang trái, bi kịch trên đất nước này.
Chỉ hy vọng rằng trong
số những nhà văn còn lại của miền Nam phải im lặng sống tại quê nhà bao nhiêu
năm hay phải tha hương trên đất khách vẫn giữ trong tim ngọn lửa văn chương chữ
nghĩa, âm thầm viết để rồi một ngày nào đó chúng ta sẽ được đọc những tác phẩm
của họ. Và những nhà văn thuộc thế hệ hôm nay, sinh ra, lớn lên sau chiến
tranh, trong và ngoài nước, nhưng canh cánh một tấm lòng đối với nước mẹ VN,
cũng vậy.
Bởi đó là món nợ của văn
nghệ sĩ trí thức đích thực đối với lịch sử và với đất nước.